Post by admin on May 28, 2009 15:55:54 GMT -5
Những Cảm Nghĩ Rời Nhân Đọc Thơ Cao Tần
Phùng Nguyễn Chia sẻ với bạn bè♦ 0 bình luận ♦ 11.04.1996 LTG: Bài viết “Những Cảm Nghĩ Rời Nhân Đọc Thơ Cao Tần” được phổ biến lần đầu trên diễn đàn soc.culture.vietnamese (SCV) vào những ngày đầu tháng giêng 1996 ký tên PN. Bài viết đủ nhạy cảm để nhanh chóng biến thành cuộc “thảo luận” tay ba giữa Kim Chi, một cây viết ẩn danh và gần như là một nhân vật “truyền kỳ” ở diễn đàn SVC, và Đông A, một du học sinh đến từ miền Bắc Việt Nam. Bài viết được đăng tải trong dạng VIQR, vô cùng phổ biến vào thời điểm đó.
Bài viết được đăng lại ở đây trong dạng tiếng Việt Unicode như là một phụ lục của bài tiểu luận 2 kỳ “Huyền Thoại” để mong làm sáng tỏ một số điểm tác giả đã đề cập trong tiểu luận này. Ngoài ra, xin bạn đọc lưu ý là những cảm giác hoặc cung cách diễn đạt của tác giả vào những năm 90’s không nhất thiết tiếp tục phản ánh một cách chính xác suy nghĩ của tác giả hơn một thập kỷ sau đó. (PN)
Đăng lần thứ hai (dạng VIQR) trên diễn đàn soc.culture.vietnamese ngày 11.04.1996
*************************
Đôi giòng về nhà thơ Cao Tần:
Cao Tần là một bút hiệu khác của nhà văn Lê Tất Điều. Trước năm 75, ông viết văn dưới bút hiệu Lê Tất Điều và làm báo dưới bút hiệu Kiều Phong ở Sài Gòn. Di tản sang Mỹ năm 75, ông đã cộng tác với nhà văn Võ Phiến để thực hiện tạp chí Văn Học Nghệ Thuật tại hải ngoại vào năm 1979. Truyện dài "Đêm Dài Một Đời" của ông được trao giải thưởng của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam trước 75. Tại hải ngoại, tập "Thơ Cao Tần" gây được sự chú ý của độc giả.
Bài thơ dưới đây trích từ tập thơ này của ông.
Ta Làm Gì Cho Hết Nửa Đời Sau
Cao Tần
Dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn
Gánh sơn hà toan chất thử lên vai
Chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn
Dọn tinh thần: cưa nhẹ đỡ ba chai.
Rừng đất khách bạt ngàn màu áo trận
Xong hiệp đầu mây núi đã bâng khuâng
Hào khí bốc đủ mười thành chất ngất
Chuyện vá trời coi đã nhẹ như không.
Một tráng sĩ vung tay cười ngạo mạn
"Nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn,
Nay đất khách kéo lê đời rất nản
Ta tính sẽ về vượt núi trèo non…
Sẽ có lúc rừng sâu bừng chuyển động
Những hùm thiêng cựa móng thét rung trời
Và sông núi sẽ vươn mình trổi dậy
Và cờ bay trên đất nước xinh tươi."
Một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối
"Thần Tự do giờ đứng ở nơi nào?
Ta muốn đến leo lên làm đuốc mới
Tự đốt mình cho lửa sáng xem sao…
Thần Tự do giơ hoài cây đuốc lạnh
Ta tiếc gì năm chục ký xương da
Sẽ làm đuốc soi tìm trong đáy biển
Những oan hồn ai bỏ giữa bao la…"
Bình minh tới một chàng bừng tỉnh giấc
Thấy chiến trường la liệt xác anh em
Năm tráng sĩ bị mười chai quất gục
Đời tha hương coi bộ cũng êm đềm.
Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
Những hào hùng uất hận gối lên nhau
Kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới:
"Ta làm gì cho hết nửa đời sau?" …
Tháng 3.1977
Ta làm gì cho hết nửa đời sau? Câu hỏi câm lặng vọng ra từ một căn gác trọ tồi tàn nào đó vào một buổi sáng tháng Ba năm 1977 vẫn còn cái dư âm dai dẵng cho đến bây giờ, mười tám năm sau. Và câu hỏi không chỉ của một Cao Tần, mà của hàng triệu Cao Tần, ở Mỹ, ở Pháp, ở Canada, và ở ngay tại quê hương chúng ta, Việt Nam. Lưu ý thời điểm bài thơ ra đời, năm 1977. Hai năm sau cái biến cố bi thảm 4/75, người Việt lưu vong trong đợt di tản đầu tiên đã tạm thời ổn định về mặt sinh hoạt tại xứ người. Những bở ngỡ, những va chạm văn hóa đã bớt gai góc, và những ấn tượng kinh hoàng về cuộc đổi đời đã giảm dần cường độ…
Và quê hương, cái quê hương mịt mù mà vô cùng yêu dấu kia sẽ mãi mãi chỉ còn là ký ức. Đó là năm 1977.
Cũng chính vào những năm tháng này, đợt di tản thứ hai bắt đầu trên một quy mô lớn. Không còn chịu đựng nổi chính sách tàn bạo và cay nghiệt của tập đoàn thống trị mới, thiên hạ rủ nhau bỏ nước ra đi. Như nhà văn trẻ Trần Vũ đã than thở, "Yêu làm sao được đất nước…, cái đất nước đã biến dạng đến độ không còn nhận ra được nữa, cái đất nước mà trại cải tạo nhiều hơn nhà thương và trường học, cái đất nước ở đó những tác phẩm văn học nghệ thuật biến thành giấy gói cá ươn, cái đất nước mà trong đó "tôi đã sống cảnh nhà bị đóng chốt, một trăm thứ vật dụng bị kiểm kê, đã thấy cả một dãy phố đem lột truồng của cải lôi vào cái bất hạnh không biên giới của quê hương…" (Tùy Bút Xám – Trần Vũ VH 79 11/92). Và đó chỉ là một trong hàng chục triệu nỗi bất hạnh đã đổ chụp lên đầu nhân dân miền Nam trong cơn say men chiến thắng của những người chủ mới.
Những người vượt biên may mắn mang theo với họ một nguồn sinh lực mới cho những kẻ đến trước. Một chút chính nghĩa, một chút hy vọng, và một tập thể người Việt ngày càng đông đảo và lớn mạnh hơn. Những bài thơ, những đoạn văn bỗng dưng chứa đầy sinh khí, và "Cờ bay trên đất nước xanh tươi" không chỉ được nhắc đến một cách u uất giữa cơn say mù trời trên căn gác trọ tồi tàn mà đã trở thành một niềm hy vọng chung cho không những đám người Việt lưu vong mà cả cho đám sinh linh khốn khổ ở phía bên kia bờ đại dương xa lắc. Rồi, như chúng ta đã biết, tị hiềm, đố kỵ, lừa đảo. Rồi niềm tin cũng nhạt, rồi khí thế cũng tan, chỉ còn lại nỗi ngậm ngùi khi nhìn lá cờ thân yêu lạc lõng bay trên đất khách, và chỉ trên đất khách.
"Bình minh tới một chàng bừng tỉnh giấc,
thấy chiến trường la liệt xác anh em."
Đúng vậy, chỉ có xác anh em mà thôi…
"Nay đất khách kéo lê đời rất nản…"
Làm gì hơn bây giờ? Chẳng phải là ta đã đến bước đường cùng?
Nhưng vật cùng tắc biến! Đổi Mới, Cởi Trói, rồi Kinh Tế Thị Trường. Rồi sự sụp đổ hàng loạt của chủ nghĩa Cộng Sản tại Đông Âu. "Ta tính sẽ về vượt suối trèo non?" Không. Ta về bằng Japan Airlines, Singapore Airlines, Korean Airlines. Ta về THĂM quê hương, không mang theo lá cờ nào cả. Cái quê hương trong mịt mù trong ký ức mấy năm về trước nay bỗng gần gũi vô cùng, mười sáu giờ bay và vài ngàn $US. Và ta, Việt kiều, những con hùm thiêng què quặt, xác xơ ngày nào bỗng "cựa móng thét rung trời," rượu ngon tràn ra như suối và gái đẹp tụ đến như rừng. Bởi ta có vài ngàn $US. Và đất nước thì đang lên cơn sốt On Sales. Ai bảo tiền không mua được Hạnh Phúc. Ta bảo, "Nhảm, tiền mua được cả Lương Tri, vấn đề là How much?"
Nhưng ta không thể làm hùm thiêng mãi. Ta phải quay về nơi ta đã ra đi để kiếm thêm vài ngàn $US cho lần sau, nếu có lần sau. Ta đã tìm về quê hương. nhưng ta đã không thấy nó, cái quê hương trong mịt mù trí tưởng. Ta thấy một đất nước xa và lạ, với những trật tự mới, những con người mới, những nếp suy tư mới. Không hẳn là tốt đẹp hơn, trái lại là đằng khác. Đã mất thật rồi, cái tinh thần "Quốc Văn Giáo Khoa Thư" ngày ta còn mài đũng quần trên chiếc ghế ở ngôi trường Tiểu học dột nát.
Những người trăm năm cũ,
hồn bây giờ ở đâu?
Và như vậy đó, ta biết rất rõ ta đã mất quê hương, cái quê hương ta mãi mãi yêu thương và mãi mãi cất giữ trong một ngăn kéo trân trọng của ký ức. Rồi ở chốn tạm dung, sẽ lại có những đêm với
"Sàn gác trọ những tâm hồn bão nỗi,
Những hào hùng uất hận gối lên nhau…"
Rồi ta tự hỏi, "Ta làm gì cho hết nửa đời sau?" Sẽ còn chăng một mười-tám-năm-sau nữa để hỏi lại mình câu hỏi ấy?
PN – 01/1996
Phùng Nguyễn Chia sẻ với bạn bè♦ 0 bình luận ♦ 11.04.1996 LTG: Bài viết “Những Cảm Nghĩ Rời Nhân Đọc Thơ Cao Tần” được phổ biến lần đầu trên diễn đàn soc.culture.vietnamese (SCV) vào những ngày đầu tháng giêng 1996 ký tên PN. Bài viết đủ nhạy cảm để nhanh chóng biến thành cuộc “thảo luận” tay ba giữa Kim Chi, một cây viết ẩn danh và gần như là một nhân vật “truyền kỳ” ở diễn đàn SVC, và Đông A, một du học sinh đến từ miền Bắc Việt Nam. Bài viết được đăng tải trong dạng VIQR, vô cùng phổ biến vào thời điểm đó.
Bài viết được đăng lại ở đây trong dạng tiếng Việt Unicode như là một phụ lục của bài tiểu luận 2 kỳ “Huyền Thoại” để mong làm sáng tỏ một số điểm tác giả đã đề cập trong tiểu luận này. Ngoài ra, xin bạn đọc lưu ý là những cảm giác hoặc cung cách diễn đạt của tác giả vào những năm 90’s không nhất thiết tiếp tục phản ánh một cách chính xác suy nghĩ của tác giả hơn một thập kỷ sau đó. (PN)
Đăng lần thứ hai (dạng VIQR) trên diễn đàn soc.culture.vietnamese ngày 11.04.1996
*************************
Đôi giòng về nhà thơ Cao Tần:
Cao Tần là một bút hiệu khác của nhà văn Lê Tất Điều. Trước năm 75, ông viết văn dưới bút hiệu Lê Tất Điều và làm báo dưới bút hiệu Kiều Phong ở Sài Gòn. Di tản sang Mỹ năm 75, ông đã cộng tác với nhà văn Võ Phiến để thực hiện tạp chí Văn Học Nghệ Thuật tại hải ngoại vào năm 1979. Truyện dài "Đêm Dài Một Đời" của ông được trao giải thưởng của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam trước 75. Tại hải ngoại, tập "Thơ Cao Tần" gây được sự chú ý của độc giả.
Bài thơ dưới đây trích từ tập thơ này của ông.
Ta Làm Gì Cho Hết Nửa Đời Sau
Cao Tần
Dăm thằng khùng họp nhau bàn chuyện lớn
Gánh sơn hà toan chất thử lên vai
Chuyện binh lửa anh em chừng cũng ớn
Dọn tinh thần: cưa nhẹ đỡ ba chai.
Rừng đất khách bạt ngàn màu áo trận
Xong hiệp đầu mây núi đã bâng khuâng
Hào khí bốc đủ mười thành chất ngất
Chuyện vá trời coi đã nhẹ như không.
Một tráng sĩ vung tay cười ngạo mạn
"Nửa đời xưa ta trấn thủ lưu đồn,
Nay đất khách kéo lê đời rất nản
Ta tính sẽ về vượt núi trèo non…
Sẽ có lúc rừng sâu bừng chuyển động
Những hùm thiêng cựa móng thét rung trời
Và sông núi sẽ vươn mình trổi dậy
Và cờ bay trên đất nước xinh tươi."
Một tráng sĩ vô êm chừng sáu cối
"Thần Tự do giờ đứng ở nơi nào?
Ta muốn đến leo lên làm đuốc mới
Tự đốt mình cho lửa sáng xem sao…
Thần Tự do giơ hoài cây đuốc lạnh
Ta tiếc gì năm chục ký xương da
Sẽ làm đuốc soi tìm trong đáy biển
Những oan hồn ai bỏ giữa bao la…"
Bình minh tới một chàng bừng tỉnh giấc
Thấy chiến trường la liệt xác anh em
Năm tráng sĩ bị mười chai quất gục
Đời tha hương coi bộ cũng êm đềm.
Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổi
Những hào hùng uất hận gối lên nhau
Kẻ thức tỉnh ngu ngơ nhìn nắng mới:
"Ta làm gì cho hết nửa đời sau?" …
Tháng 3.1977
Ta làm gì cho hết nửa đời sau? Câu hỏi câm lặng vọng ra từ một căn gác trọ tồi tàn nào đó vào một buổi sáng tháng Ba năm 1977 vẫn còn cái dư âm dai dẵng cho đến bây giờ, mười tám năm sau. Và câu hỏi không chỉ của một Cao Tần, mà của hàng triệu Cao Tần, ở Mỹ, ở Pháp, ở Canada, và ở ngay tại quê hương chúng ta, Việt Nam. Lưu ý thời điểm bài thơ ra đời, năm 1977. Hai năm sau cái biến cố bi thảm 4/75, người Việt lưu vong trong đợt di tản đầu tiên đã tạm thời ổn định về mặt sinh hoạt tại xứ người. Những bở ngỡ, những va chạm văn hóa đã bớt gai góc, và những ấn tượng kinh hoàng về cuộc đổi đời đã giảm dần cường độ…
Và quê hương, cái quê hương mịt mù mà vô cùng yêu dấu kia sẽ mãi mãi chỉ còn là ký ức. Đó là năm 1977.
Cũng chính vào những năm tháng này, đợt di tản thứ hai bắt đầu trên một quy mô lớn. Không còn chịu đựng nổi chính sách tàn bạo và cay nghiệt của tập đoàn thống trị mới, thiên hạ rủ nhau bỏ nước ra đi. Như nhà văn trẻ Trần Vũ đã than thở, "Yêu làm sao được đất nước…, cái đất nước đã biến dạng đến độ không còn nhận ra được nữa, cái đất nước mà trại cải tạo nhiều hơn nhà thương và trường học, cái đất nước ở đó những tác phẩm văn học nghệ thuật biến thành giấy gói cá ươn, cái đất nước mà trong đó "tôi đã sống cảnh nhà bị đóng chốt, một trăm thứ vật dụng bị kiểm kê, đã thấy cả một dãy phố đem lột truồng của cải lôi vào cái bất hạnh không biên giới của quê hương…" (Tùy Bút Xám – Trần Vũ VH 79 11/92). Và đó chỉ là một trong hàng chục triệu nỗi bất hạnh đã đổ chụp lên đầu nhân dân miền Nam trong cơn say men chiến thắng của những người chủ mới.
Những người vượt biên may mắn mang theo với họ một nguồn sinh lực mới cho những kẻ đến trước. Một chút chính nghĩa, một chút hy vọng, và một tập thể người Việt ngày càng đông đảo và lớn mạnh hơn. Những bài thơ, những đoạn văn bỗng dưng chứa đầy sinh khí, và "Cờ bay trên đất nước xanh tươi" không chỉ được nhắc đến một cách u uất giữa cơn say mù trời trên căn gác trọ tồi tàn mà đã trở thành một niềm hy vọng chung cho không những đám người Việt lưu vong mà cả cho đám sinh linh khốn khổ ở phía bên kia bờ đại dương xa lắc. Rồi, như chúng ta đã biết, tị hiềm, đố kỵ, lừa đảo. Rồi niềm tin cũng nhạt, rồi khí thế cũng tan, chỉ còn lại nỗi ngậm ngùi khi nhìn lá cờ thân yêu lạc lõng bay trên đất khách, và chỉ trên đất khách.
"Bình minh tới một chàng bừng tỉnh giấc,
thấy chiến trường la liệt xác anh em."
Đúng vậy, chỉ có xác anh em mà thôi…
"Nay đất khách kéo lê đời rất nản…"
Làm gì hơn bây giờ? Chẳng phải là ta đã đến bước đường cùng?
Nhưng vật cùng tắc biến! Đổi Mới, Cởi Trói, rồi Kinh Tế Thị Trường. Rồi sự sụp đổ hàng loạt của chủ nghĩa Cộng Sản tại Đông Âu. "Ta tính sẽ về vượt suối trèo non?" Không. Ta về bằng Japan Airlines, Singapore Airlines, Korean Airlines. Ta về THĂM quê hương, không mang theo lá cờ nào cả. Cái quê hương trong mịt mù trong ký ức mấy năm về trước nay bỗng gần gũi vô cùng, mười sáu giờ bay và vài ngàn $US. Và ta, Việt kiều, những con hùm thiêng què quặt, xác xơ ngày nào bỗng "cựa móng thét rung trời," rượu ngon tràn ra như suối và gái đẹp tụ đến như rừng. Bởi ta có vài ngàn $US. Và đất nước thì đang lên cơn sốt On Sales. Ai bảo tiền không mua được Hạnh Phúc. Ta bảo, "Nhảm, tiền mua được cả Lương Tri, vấn đề là How much?"
Nhưng ta không thể làm hùm thiêng mãi. Ta phải quay về nơi ta đã ra đi để kiếm thêm vài ngàn $US cho lần sau, nếu có lần sau. Ta đã tìm về quê hương. nhưng ta đã không thấy nó, cái quê hương trong mịt mù trí tưởng. Ta thấy một đất nước xa và lạ, với những trật tự mới, những con người mới, những nếp suy tư mới. Không hẳn là tốt đẹp hơn, trái lại là đằng khác. Đã mất thật rồi, cái tinh thần "Quốc Văn Giáo Khoa Thư" ngày ta còn mài đũng quần trên chiếc ghế ở ngôi trường Tiểu học dột nát.
Những người trăm năm cũ,
hồn bây giờ ở đâu?
Và như vậy đó, ta biết rất rõ ta đã mất quê hương, cái quê hương ta mãi mãi yêu thương và mãi mãi cất giữ trong một ngăn kéo trân trọng của ký ức. Rồi ở chốn tạm dung, sẽ lại có những đêm với
"Sàn gác trọ những tâm hồn bão nỗi,
Những hào hùng uất hận gối lên nhau…"
Rồi ta tự hỏi, "Ta làm gì cho hết nửa đời sau?" Sẽ còn chăng một mười-tám-năm-sau nữa để hỏi lại mình câu hỏi ấy?
PN – 01/1996