Post by truongtuphong on Sept 22, 2009 16:41:12 GMT -5
Người phi công hàng binh kỳ lạ
Trần Văn On (ngoài cùng bên trái) cùng đồng đội sau trận đánh Tân Sơn Nhất.
Chập choạng chiều 28/4/1975, sân bay Tân Sơn Nhất đông nghẹt các chuyến bay di tản. Bất ngờ một phi đội 5 chiếc máy bay ném bom A37 bổ nhào từ bầu trời xuống cắt bom vào khu đỗ máy bay quân sự. Trong chớp mắt, hàng chục chiếc bị phá hủy, cháy đỏ rực cả sân bay...
Trong 6 phi công dũng cảm của phi đội này, 4 người là phi công miền Bắc. Chỉ có Nguyễn Thành Trung và 1 người còn lại từng mặc áo phi công quân đội VNCH, được đào tạo ở Mỹ về. Người phi công số 2 này sau đó tiếp tục lái chiếc A37 tham chiến giải phóng biên giới Tây Nam, rồi “biến mất” một cách lặng lẽ...
Từ những thông tin ít ỏi về người phi công bí ẩn này, tôi cố gắng lần tìm lại lịch sử và các nhân chứng. Nhiều người biết láng máng, lắc đầu không nhớ cụ thể. Nhưng cuối cùng, có một cựu binh cũng biết chính xác đó là Trần Văn On, một viên Trung úy phi công thuộc Phi đoàn 550, quân đội Sài Gòn đóng ở Đà Nẵng.
Ngày địa phương này được giải phóng, anh đã không làm như hầu hết phi công khác là lái máy bay rút về Sài Gòn hoặc trốn ra nước ngoài, mà quyết định ở lại, tình nguyện xin được tham chiến cùng với những người lính Quân giải phóng dưới lá cờ đỏ sao vàng.
Trận oanh tạc lịch sử
Những ngày cuối tháng 4/1975, trong khí thế quân đội cách mạng tấn công giải phóng miền Nam như vũ bão, các đồng chí lãnh đạo quyết định dùng chính “gậy ông đập lưng ông”, sử dụng máy bay thu được của địch để mở thêm mặt trận trên không.
Mục đích không chỉ phá hủy máy bay chiến đấu của quân đội Sài Gòn, mà còn như quả đấm lửa bất ngờ đè bẹp ý chí kháng cự của kẻ thù, đồng thời tăng thêm tinh thần chiến đấu cho chiến sĩ cách mạng.
Trong những máy bay ta thu được ở Đà Nẵng và Phan Rang có gần 10 chiếc phản lực ném bom A37, nhưng hầu hết đã bị trục trặc kỹ thuật. Việc sửa chữa chúng được nhanh chóng thực hiện. Cái khó nhất là tìm phi công cầm lái.
Nhóm phi công từ miền Bắc vào ngoài Nguyễn Thành Trung đã từng lái máy bay Mỹ, còn các anh Từ Để, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn Quảng, Mai Vượng đều được đào tạo ở miền Bắc, chỉ quen cầm lái máy bay MiG của Liên Xô. Việc học chuyển đổi lái được yêu cầu thực hiện cấp tốc trong vài ngày với sự huấn luyện chính của Nguyễn Thành Trung và Trung úy phi công tình nguyện Trần Văn On.
Bước đầu, các phi công miền Bắc lúng túng với kiểu máy bay hoàn toàn khác lạ. Ngay cả những nút điều khiển bằng tiếng Anh trên chiếc A37 cũng phải thay bằng tiếng Việt cắt dán lên. Tuy nhiên, với nỗ lực phải hoàn thành nhiệm vụ, cuối cùng họ cũng đã lái được những “con chim sắt” mới trước đó còn là đối thủ của MiG trên bầu trời.
Ngày 27/4/1975, phi đội đã sẵn sàng chiến đấu và được đặt tên là Phi đội Quyết Thắng do Nguyễn Thành Trung làm Phi đội trưởng. Chính Đại tá Lê Văn Tri lúc đó là Tư lệnh Quân chủng đã đến bắt tay từng người và dõng dạc ra lệnh cho Phi đội: “Hôm nay, tôi thay mặt Bộ Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ cho Phi đội Quyết Thắng: Một, các đồng chí phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cấp trên giao. Hai, tập trung toàn bộ lực lượng phi đội đánh vào bãi đậu máy bay của quân địch ở sân bay Tân Sơn Nhất. Thời gian xuất kích là 16h 30 phút, ngày 28/4/1975. Chúc các đồng chí hoàn thành nhiệm vụ và phải kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ”.
Trần Văn On bên chiếc MiG trong một lần ra Hà Nội.
16h 30 phút, ngày 28/4/1975, Phi đội Quyết Thắng xuất kích. Đội hình bay gồm 5 chiếc do Nguyễn Thành Trung lái chiếc số 1 dẫn đầu, Để số 2, Lục số 3, On và Vượng số 4, Quảng số 5. Đường bay xa, và trở về an toàn, mỗi chiếc phải giảm bớt cơ số bom quy chuẩn để mang thêm bình xăng phụ ở cánh. Tốc độ tối đa. Tầm bay thấp 300m dọc theo bờ biển Nam Trung Bộ để tránh rađa địch.
Đến Xuân Lộc, đội hình nâng cao độ bay 2.000m. Trời mưa to. Nhiều lúc, các phi công phải bay mù xuyên qua các đám mây đen. Tuy nhiên, đội hình vẫn theo đúng kế hoạch, bình tĩnh bay thẳng về hướng Bà Rịa – Vũng Tàu để nghi binh rồi bất ngờ quẹo về Biên Hòa.
Khi phi đội vào đến vùng trời trên sân bay Tân Sơn Nhất thì mưa vừa tạnh, trời quang đãng trở lại. Từng dãy máy bay quân sự, dân sự, ôtô, nhà kho hiện rõ phía dưới. Nguyễn Thành Trung phát lệnh tấn công, rồi bổ nhào xuống đúng khu đỗ máy bay quân sự cắt bom. Tuy nhiên, hệ thống cắt bom trên máy bay của anh bất ngờ bị trục trặc, bom không rơi. Khi anh lượn lên thì cũng là lúc Để, Lục, On, Quảng nối tiếp nhau bổ nhào xuống cắt chính xác hàng loạt bom. Trung lượn vòng lại, cắt loạt bom cuối cùng...
Đường băng rực lửa. Xác hàng chục máy bay dưới đất vỡ tan. Kho nhiên liệu cũng bốc cháy ngùn ngụt. Lúc này, quân địch bên dưới mới định thần. Khi phi đội giội hết bom, lượn vòng để trở về thì các loạt đạn phòng không 100 ly từ tàu chiến ở Nhà Bè mới kịp khai hỏa. Nhưng tất cả đã muộn.
Cả 5 chiếc máy bay hạ cánh an toàn xuống sân bay Thành Sơn khi ánh chiều muộn cuối cùng vừa tắt trong tiếng vỗ tay hoan hô vang rền của chiến sĩ ta. Chính Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri bước ra tận đường băng, bắt tay, ôm hôn, chúc mừng từng phi công vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Tối đó, không quân Sài Gòn cố gắng trong tuyệt vọng điều một đội hình máy bay ném bom ra sân bay Phan Rang để trả thù và gỡ gạc khỏi bẽ mặt. Tuy nhiên, các đồng chí lãnh đạo không quân cách mạng đã dự liệu trước tình huống này. Máy bay và những khí tài quan trọng đã được di tản an toàn. Bom đạn địch chỉ đánh gió trong vô vọng và tức tối.
Chỉ sau trận ném bom Tân Sơn Nhất của phi đội cách mạng ít phút, các hãng thông tấn phương Tây đã loan tin sân bay quốc tế này bị tê liệt và rối loạn hoàn toàn. Kế hoạch di tản hàng loạt bằng máy bay phản lực hạng nặng đã phải thay thế bằng những chiếc trực thăng loại nhỏ trên các nóc cao ốc.
Một khung cảnh hoảng loạn chưa từng có đang xảy ra. Ngày tàn chế độ Sài Gòn đã điểm rất gần...
Đi tìm người phi công bí ẩn
Sau trận ném bom lịch sử này, Trần Văn On tiếp tục sát cánh với Nguyễn Thành Trung làm công tác bay huấn luyện phi công mới và trực tiếp tham chiến ở một số hải đảo. Và khi mặt trận biên giới Tây Nam nổ ra, Trần Văn On lại cùng đồng đội tiếp tục làm nhiệm vụ, lập nhiều chiến công buộc Khmer Đỏ phải tháo chạy.
Sau các trận chiến này, On được đề nghị ra Nha Trang tiếp tục làm công tác huấn luyện không quân, nhưng anh đã bất ngờ xin ra quân để về quê nhà ở Tiền Giang cho dù cấp trên có khuyên bảo, động viên anh ở lại.
On trở về quê nhà ở Gò Công một cách âm thầm. Thậm chí, nhiều người còn nghĩ “viên phi công quân đội Sài Gòn” này mới trở về từ trại cải tạo. Thời gian này, hoàn cảnh kinh tế cả nước còn khó khăn. On cũng cùng mọi người xắn tay áo, xung phong đi đào vét thủy lợi, xả mặn, rửa ngọt đồng ruộng.
Lúc đầu, chính quyền địa phương còn “cảnh giác viên phi công quân đội Sài Gòn”, nhưng về sau lại quý mến anh. Tuy nhiên, vẫn không một ai hay biết On đã từng bay trong Phi đội Quyết Thắng và đã làm nên những trận chiến anh hùng.
Ngay cả đồng đội thân thiết trong Phi đội Quyết Thắng năm xưa cũng không biết On đi đâu. Rất nhiều lần, họ đã đi tìm, nhưng cuối cùng đành bùi ngùi trở về. Mãi rất lâu sau đó, họ mới tìm được nơi anh đang ở trên một cánh đồng ở Gò Công.
Buổi gặp mặt bất ngờ đầy xúc động. Người phi công giác ngộ cách mạng năm nào cứ bồi hồi nghe bạn bè kể lại chuyện bầu trời. Còn đồng đội của anh bần thần nhìn đôi bàn tay chai sạn, nhuốm màu đồng ruộng. Họ thức cả đêm bàn tính chuyện sinh kế cho gia đình anh. Người khuyên lên Sài Gòn lập nghiệp. Người bày anh ôn lại vốn liếng tiếng Anh khá chuẩn của phi công được đào tạo ở Mỹ để mở lớp dạy thêm kiếm sống. Anh lặng lẽ nghe hết, rồi chỉ cười trả lời: “Dù sao so với trước, bây giờ cũng khá hơn nhiều lắm rồi. Bao nhiêu bà con ở đây vẫn sống. Và tôi vẫn tin ở tương lai...”.
Không ai muốn chia tay, nhưng rồi cũng đến lúc mọi người phải trở về với gia đình, công việc của mình. Bạn bè quyên góp chút tiền để đỡ đần anh vượt qua khó khăn, nuôi nấng con nhỏ. Tuy nhiên, số tiền tình nghĩa đó cũng không giúp đỡ anh được bao lâu.
Người phi công năm xưa cùng vợ là giáo viên đã nghỉ dạy và 6 người con nhỏ tiếp tục nghèo khó trên 4 công ruộng. Để lo cho con đến trường, anh phải đi làm mướn thêm. Nhưng đất Gò Công nghèo khó, người làm mướn nhiều hơn người bỏ tiền ra thuê. Khó khăn chồng chất, với bản tính siêng năng, vượt qua mọi gian khổ anh đã cùng vợ con vượt qua thời kỳ bĩ cực.
Giờ đây anh vẫn kiên trì làm việc, tích cóp vượt khó. Trên nền đất cũ của anh, một ngôi nhà gạch cấp 4 nhỏ bé thay cho ngôi nhà lá dừa xập xệ. Chiếc điện thoại cũng mới được gắn để bạn bè chiến đấu thỉnh thoảng hàn huyên từ xa với nhau.
Niềm vui lớn nhất của anh bây giờ là các con đã lớn khôn. Cô con gái đầu say mê tiếng Nhật, đã ra trường, đi làm việc ở TP HCM để đỡ đần cho cha mẹ. Cậu con kế cũng vừa tốt nghiệp THPT và giỏi toán, lý, hóa. Có lần cậu tâm sự với cha sẽ cố thi vào phi công. Anh cười, gật đầu ngay với mơ ước của con.
Buổi chiều, tôi từ TP HCM lần về Gò Công tìm anh. Huyện Gò Công Đông cũng có một cựu binh tên On nhưng không phải là phi công. Suy đoán anh ở Gò Công Tây, nhưng phải lần mò tìm kiếm ở từng xã. Cuối cùng, ở xã Vĩnh Hựu, những người chạy xe ôm khi nghe tôi hỏi đã ồ lên: “Ông On, phi công, bạn của Nguyễn Thành Trung, phải không?”.
Khi tôi tìm đến đúng nhà, thì đúng lúc anh đi làm đồng về, chân tay vẫn còn lấm lem bùn đất và những cọng mạ mướt xanh. Anh bồi hồi kể: vừa rồi có niềm vui rất lớn. Những đồng đội năm nào mới về đây tìm, mời anh tham dự lễ kỷ niệm chiến thắng của Phi đội Quyết Thắng ở ngay sân bay Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận.
Sau 30 năm, anh lại được khoác trên người bộ đồ bay sánh bước cùng đồng đội trên đường băng năm xưa. Chỉ có điều là lần này, họ không phải bước xuống đất từ cuộc chiến trên không nữa.
Rồi anh được mời ra Hà Nội, ghé thăm nhà anh Hán Văn Quảng, người sát cánh bay với anh trong Phi đội Quyết Thắng giội bom xuống Tân Sơn Nhất. Lần đầu tiên được ghé viếng Lăng Bác Hồ ở Quảng trường Ba Đình, rồi đi thăm khu phố Khâm Thiên đã từng bị máy bay B52 rải bom thảm hủy diệt, On không giấu được nỗi xúc động: “Cũng may là cuộc chiến đã chấm dứt, nếu không dân tộc mình sẽ còn đau thương, tang tóc nhiều!”.
Những ngày ở Hà Nội, anh nhiều đêm không ngủ, để tranh thủ đi lang thang khắp nơi, cảm nhận thủ đô của đất nước mình. Anh hiểu hoàn cảnh sẽ không cho phép mình có nhiều điều kiện để ra đây. Cũng trong đợt này, anh được Quân chủng Không quân ký trao giấy xác nhận đã lập nên chiến công oanh tạc sân bay Tân Sơn Nhất. Vậy là 30 năm sau, thành tích của anh đã được công nhận rõ ràng.
Cả buổi chiều mưa dầm, người cựu phi công này cứ trầm ngâm tâm sự chuyện đời mình với tôi. Anh sinh năm 1948, trong một gia đình bần cố nông ở ngay mảnh đất nay đang ở. Khi anh đỗ tú tài cũng là lúc anh bị bắt quân dịch trong đợt tổng động viên năm 1968.
Sức khỏe tốt, lại có học hành chút ít, anh bị chuyển qua dự bị không quân. Rồi năm 1971, anh bị đưa thẳng sang Mỹ tập lái A37. Chính những ngày tháng sống trên đất người này đã giúp anh cảm nhận về một cái gì đó không ổn trong cuộc chiến của những kẻ giàu có thừa máy bay, bom đạn trên đất nước nghèo khó quê hương anh.
Năm 1973, anh bị đưa về Không đoàn Đà Nẵng. Viên trung úy phi công trẻ này trở thành một cái gai trong mắt chỉ huy khi liên tục có những hành vi "ngang ngược, chống lệnh". Nhiều phi công cùng khóa đã nhanh chóng thăng tiến, còn anh cứ dậm chân tại chỗ cũng vì lẽ đó...
Khi cảm nghiệm về cuộc chiến tranh phi nghĩa đã định hình rõ trong anh để chuẩn bị đi đến quyết định quan trọng thì đoàn quân cách mạng đã giải phóng Đà Nẵng. Có sẵn máy bay trong tay, nhưng anh không rút lui về Sài Gòn cũng không trốn chạy ra nước ngoài như nhiều phi công khác.
Tuy nhiên, khi quyết định ra trình diện quân cách mạng và đề đạt nguyện vọng xin được chiến đấu, thật sự anh cũng chưa tin mình có thể được tin tưởng. Nhưng rồi nguyện vọng đó đã được chấp nhận, không chỉ vì lý lịch cơ bản tốt hay một hồ sơ “chống lệnh” dày cộp của viên phi công Sài Gòn, mà còn bởi đôi mắt dám nhìn thẳng để nói lên sự thật của trái tim một người mang dòng máu Việt.
Ngồi nhìn vợ con đang tỉ mẩn sàng sẩy những hạt lúa lép trên hàng hiên xiên xiên bóng nắng sau cơn mưa, On tâm sự với tôi rằng anh không thể quên được cảm giác xúc động khi lần đầu tiên cởi bỏ quân phục Sài Gòn để thay bằng bộ đồ người lính cách mạng.
Rồi suốt hơn 30 năm nay, nhiều người vẫn hỏi On đã được tin tưởng, giao cho nhiều trọng trách quan trọng trong một binh chủng hào hùng như thế, tại sao lại lặng lẽ trở về? Anh chỉ cười, trả lời: “Gia đình tôi bao đời sống với cái cày, cái cuốc. Tôi vẫn nghĩ mình hợp với cuộc sống thanh bình chốn ruộng đồng hơn...”.
Lặng lẽ nhìn ánh mắt On mơ màng nhìn ra cánh đồng mạ đang thì xanh mướt, tôi cảm nhận được tâm trạng của anh. Người Việt Nam có câu nói yêu nước “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, nhưng chắc chắn đâu có ai muốn chiến tranh...
Quốc Việt
Trần Văn On (ngoài cùng bên trái) cùng đồng đội sau trận đánh Tân Sơn Nhất.
Chập choạng chiều 28/4/1975, sân bay Tân Sơn Nhất đông nghẹt các chuyến bay di tản. Bất ngờ một phi đội 5 chiếc máy bay ném bom A37 bổ nhào từ bầu trời xuống cắt bom vào khu đỗ máy bay quân sự. Trong chớp mắt, hàng chục chiếc bị phá hủy, cháy đỏ rực cả sân bay...
Trong 6 phi công dũng cảm của phi đội này, 4 người là phi công miền Bắc. Chỉ có Nguyễn Thành Trung và 1 người còn lại từng mặc áo phi công quân đội VNCH, được đào tạo ở Mỹ về. Người phi công số 2 này sau đó tiếp tục lái chiếc A37 tham chiến giải phóng biên giới Tây Nam, rồi “biến mất” một cách lặng lẽ...
Từ những thông tin ít ỏi về người phi công bí ẩn này, tôi cố gắng lần tìm lại lịch sử và các nhân chứng. Nhiều người biết láng máng, lắc đầu không nhớ cụ thể. Nhưng cuối cùng, có một cựu binh cũng biết chính xác đó là Trần Văn On, một viên Trung úy phi công thuộc Phi đoàn 550, quân đội Sài Gòn đóng ở Đà Nẵng.
Ngày địa phương này được giải phóng, anh đã không làm như hầu hết phi công khác là lái máy bay rút về Sài Gòn hoặc trốn ra nước ngoài, mà quyết định ở lại, tình nguyện xin được tham chiến cùng với những người lính Quân giải phóng dưới lá cờ đỏ sao vàng.
Trận oanh tạc lịch sử
Những ngày cuối tháng 4/1975, trong khí thế quân đội cách mạng tấn công giải phóng miền Nam như vũ bão, các đồng chí lãnh đạo quyết định dùng chính “gậy ông đập lưng ông”, sử dụng máy bay thu được của địch để mở thêm mặt trận trên không.
Mục đích không chỉ phá hủy máy bay chiến đấu của quân đội Sài Gòn, mà còn như quả đấm lửa bất ngờ đè bẹp ý chí kháng cự của kẻ thù, đồng thời tăng thêm tinh thần chiến đấu cho chiến sĩ cách mạng.
Trong những máy bay ta thu được ở Đà Nẵng và Phan Rang có gần 10 chiếc phản lực ném bom A37, nhưng hầu hết đã bị trục trặc kỹ thuật. Việc sửa chữa chúng được nhanh chóng thực hiện. Cái khó nhất là tìm phi công cầm lái.
Nhóm phi công từ miền Bắc vào ngoài Nguyễn Thành Trung đã từng lái máy bay Mỹ, còn các anh Từ Để, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn Quảng, Mai Vượng đều được đào tạo ở miền Bắc, chỉ quen cầm lái máy bay MiG của Liên Xô. Việc học chuyển đổi lái được yêu cầu thực hiện cấp tốc trong vài ngày với sự huấn luyện chính của Nguyễn Thành Trung và Trung úy phi công tình nguyện Trần Văn On.
Bước đầu, các phi công miền Bắc lúng túng với kiểu máy bay hoàn toàn khác lạ. Ngay cả những nút điều khiển bằng tiếng Anh trên chiếc A37 cũng phải thay bằng tiếng Việt cắt dán lên. Tuy nhiên, với nỗ lực phải hoàn thành nhiệm vụ, cuối cùng họ cũng đã lái được những “con chim sắt” mới trước đó còn là đối thủ của MiG trên bầu trời.
Ngày 27/4/1975, phi đội đã sẵn sàng chiến đấu và được đặt tên là Phi đội Quyết Thắng do Nguyễn Thành Trung làm Phi đội trưởng. Chính Đại tá Lê Văn Tri lúc đó là Tư lệnh Quân chủng đã đến bắt tay từng người và dõng dạc ra lệnh cho Phi đội: “Hôm nay, tôi thay mặt Bộ Tư lệnh Quân chủng giao nhiệm vụ cho Phi đội Quyết Thắng: Một, các đồng chí phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cấp trên giao. Hai, tập trung toàn bộ lực lượng phi đội đánh vào bãi đậu máy bay của quân địch ở sân bay Tân Sơn Nhất. Thời gian xuất kích là 16h 30 phút, ngày 28/4/1975. Chúc các đồng chí hoàn thành nhiệm vụ và phải kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ”.
Trần Văn On bên chiếc MiG trong một lần ra Hà Nội.
16h 30 phút, ngày 28/4/1975, Phi đội Quyết Thắng xuất kích. Đội hình bay gồm 5 chiếc do Nguyễn Thành Trung lái chiếc số 1 dẫn đầu, Để số 2, Lục số 3, On và Vượng số 4, Quảng số 5. Đường bay xa, và trở về an toàn, mỗi chiếc phải giảm bớt cơ số bom quy chuẩn để mang thêm bình xăng phụ ở cánh. Tốc độ tối đa. Tầm bay thấp 300m dọc theo bờ biển Nam Trung Bộ để tránh rađa địch.
Đến Xuân Lộc, đội hình nâng cao độ bay 2.000m. Trời mưa to. Nhiều lúc, các phi công phải bay mù xuyên qua các đám mây đen. Tuy nhiên, đội hình vẫn theo đúng kế hoạch, bình tĩnh bay thẳng về hướng Bà Rịa – Vũng Tàu để nghi binh rồi bất ngờ quẹo về Biên Hòa.
Khi phi đội vào đến vùng trời trên sân bay Tân Sơn Nhất thì mưa vừa tạnh, trời quang đãng trở lại. Từng dãy máy bay quân sự, dân sự, ôtô, nhà kho hiện rõ phía dưới. Nguyễn Thành Trung phát lệnh tấn công, rồi bổ nhào xuống đúng khu đỗ máy bay quân sự cắt bom. Tuy nhiên, hệ thống cắt bom trên máy bay của anh bất ngờ bị trục trặc, bom không rơi. Khi anh lượn lên thì cũng là lúc Để, Lục, On, Quảng nối tiếp nhau bổ nhào xuống cắt chính xác hàng loạt bom. Trung lượn vòng lại, cắt loạt bom cuối cùng...
Đường băng rực lửa. Xác hàng chục máy bay dưới đất vỡ tan. Kho nhiên liệu cũng bốc cháy ngùn ngụt. Lúc này, quân địch bên dưới mới định thần. Khi phi đội giội hết bom, lượn vòng để trở về thì các loạt đạn phòng không 100 ly từ tàu chiến ở Nhà Bè mới kịp khai hỏa. Nhưng tất cả đã muộn.
Cả 5 chiếc máy bay hạ cánh an toàn xuống sân bay Thành Sơn khi ánh chiều muộn cuối cùng vừa tắt trong tiếng vỗ tay hoan hô vang rền của chiến sĩ ta. Chính Tư lệnh Quân chủng Lê Văn Tri bước ra tận đường băng, bắt tay, ôm hôn, chúc mừng từng phi công vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Tối đó, không quân Sài Gòn cố gắng trong tuyệt vọng điều một đội hình máy bay ném bom ra sân bay Phan Rang để trả thù và gỡ gạc khỏi bẽ mặt. Tuy nhiên, các đồng chí lãnh đạo không quân cách mạng đã dự liệu trước tình huống này. Máy bay và những khí tài quan trọng đã được di tản an toàn. Bom đạn địch chỉ đánh gió trong vô vọng và tức tối.
Chỉ sau trận ném bom Tân Sơn Nhất của phi đội cách mạng ít phút, các hãng thông tấn phương Tây đã loan tin sân bay quốc tế này bị tê liệt và rối loạn hoàn toàn. Kế hoạch di tản hàng loạt bằng máy bay phản lực hạng nặng đã phải thay thế bằng những chiếc trực thăng loại nhỏ trên các nóc cao ốc.
Một khung cảnh hoảng loạn chưa từng có đang xảy ra. Ngày tàn chế độ Sài Gòn đã điểm rất gần...
Đi tìm người phi công bí ẩn
Sau trận ném bom lịch sử này, Trần Văn On tiếp tục sát cánh với Nguyễn Thành Trung làm công tác bay huấn luyện phi công mới và trực tiếp tham chiến ở một số hải đảo. Và khi mặt trận biên giới Tây Nam nổ ra, Trần Văn On lại cùng đồng đội tiếp tục làm nhiệm vụ, lập nhiều chiến công buộc Khmer Đỏ phải tháo chạy.
Sau các trận chiến này, On được đề nghị ra Nha Trang tiếp tục làm công tác huấn luyện không quân, nhưng anh đã bất ngờ xin ra quân để về quê nhà ở Tiền Giang cho dù cấp trên có khuyên bảo, động viên anh ở lại.
On trở về quê nhà ở Gò Công một cách âm thầm. Thậm chí, nhiều người còn nghĩ “viên phi công quân đội Sài Gòn” này mới trở về từ trại cải tạo. Thời gian này, hoàn cảnh kinh tế cả nước còn khó khăn. On cũng cùng mọi người xắn tay áo, xung phong đi đào vét thủy lợi, xả mặn, rửa ngọt đồng ruộng.
Lúc đầu, chính quyền địa phương còn “cảnh giác viên phi công quân đội Sài Gòn”, nhưng về sau lại quý mến anh. Tuy nhiên, vẫn không một ai hay biết On đã từng bay trong Phi đội Quyết Thắng và đã làm nên những trận chiến anh hùng.
Ngay cả đồng đội thân thiết trong Phi đội Quyết Thắng năm xưa cũng không biết On đi đâu. Rất nhiều lần, họ đã đi tìm, nhưng cuối cùng đành bùi ngùi trở về. Mãi rất lâu sau đó, họ mới tìm được nơi anh đang ở trên một cánh đồng ở Gò Công.
Buổi gặp mặt bất ngờ đầy xúc động. Người phi công giác ngộ cách mạng năm nào cứ bồi hồi nghe bạn bè kể lại chuyện bầu trời. Còn đồng đội của anh bần thần nhìn đôi bàn tay chai sạn, nhuốm màu đồng ruộng. Họ thức cả đêm bàn tính chuyện sinh kế cho gia đình anh. Người khuyên lên Sài Gòn lập nghiệp. Người bày anh ôn lại vốn liếng tiếng Anh khá chuẩn của phi công được đào tạo ở Mỹ để mở lớp dạy thêm kiếm sống. Anh lặng lẽ nghe hết, rồi chỉ cười trả lời: “Dù sao so với trước, bây giờ cũng khá hơn nhiều lắm rồi. Bao nhiêu bà con ở đây vẫn sống. Và tôi vẫn tin ở tương lai...”.
Không ai muốn chia tay, nhưng rồi cũng đến lúc mọi người phải trở về với gia đình, công việc của mình. Bạn bè quyên góp chút tiền để đỡ đần anh vượt qua khó khăn, nuôi nấng con nhỏ. Tuy nhiên, số tiền tình nghĩa đó cũng không giúp đỡ anh được bao lâu.
Người phi công năm xưa cùng vợ là giáo viên đã nghỉ dạy và 6 người con nhỏ tiếp tục nghèo khó trên 4 công ruộng. Để lo cho con đến trường, anh phải đi làm mướn thêm. Nhưng đất Gò Công nghèo khó, người làm mướn nhiều hơn người bỏ tiền ra thuê. Khó khăn chồng chất, với bản tính siêng năng, vượt qua mọi gian khổ anh đã cùng vợ con vượt qua thời kỳ bĩ cực.
Giờ đây anh vẫn kiên trì làm việc, tích cóp vượt khó. Trên nền đất cũ của anh, một ngôi nhà gạch cấp 4 nhỏ bé thay cho ngôi nhà lá dừa xập xệ. Chiếc điện thoại cũng mới được gắn để bạn bè chiến đấu thỉnh thoảng hàn huyên từ xa với nhau.
Niềm vui lớn nhất của anh bây giờ là các con đã lớn khôn. Cô con gái đầu say mê tiếng Nhật, đã ra trường, đi làm việc ở TP HCM để đỡ đần cho cha mẹ. Cậu con kế cũng vừa tốt nghiệp THPT và giỏi toán, lý, hóa. Có lần cậu tâm sự với cha sẽ cố thi vào phi công. Anh cười, gật đầu ngay với mơ ước của con.
Buổi chiều, tôi từ TP HCM lần về Gò Công tìm anh. Huyện Gò Công Đông cũng có một cựu binh tên On nhưng không phải là phi công. Suy đoán anh ở Gò Công Tây, nhưng phải lần mò tìm kiếm ở từng xã. Cuối cùng, ở xã Vĩnh Hựu, những người chạy xe ôm khi nghe tôi hỏi đã ồ lên: “Ông On, phi công, bạn của Nguyễn Thành Trung, phải không?”.
Khi tôi tìm đến đúng nhà, thì đúng lúc anh đi làm đồng về, chân tay vẫn còn lấm lem bùn đất và những cọng mạ mướt xanh. Anh bồi hồi kể: vừa rồi có niềm vui rất lớn. Những đồng đội năm nào mới về đây tìm, mời anh tham dự lễ kỷ niệm chiến thắng của Phi đội Quyết Thắng ở ngay sân bay Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận.
Sau 30 năm, anh lại được khoác trên người bộ đồ bay sánh bước cùng đồng đội trên đường băng năm xưa. Chỉ có điều là lần này, họ không phải bước xuống đất từ cuộc chiến trên không nữa.
Rồi anh được mời ra Hà Nội, ghé thăm nhà anh Hán Văn Quảng, người sát cánh bay với anh trong Phi đội Quyết Thắng giội bom xuống Tân Sơn Nhất. Lần đầu tiên được ghé viếng Lăng Bác Hồ ở Quảng trường Ba Đình, rồi đi thăm khu phố Khâm Thiên đã từng bị máy bay B52 rải bom thảm hủy diệt, On không giấu được nỗi xúc động: “Cũng may là cuộc chiến đã chấm dứt, nếu không dân tộc mình sẽ còn đau thương, tang tóc nhiều!”.
Những ngày ở Hà Nội, anh nhiều đêm không ngủ, để tranh thủ đi lang thang khắp nơi, cảm nhận thủ đô của đất nước mình. Anh hiểu hoàn cảnh sẽ không cho phép mình có nhiều điều kiện để ra đây. Cũng trong đợt này, anh được Quân chủng Không quân ký trao giấy xác nhận đã lập nên chiến công oanh tạc sân bay Tân Sơn Nhất. Vậy là 30 năm sau, thành tích của anh đã được công nhận rõ ràng.
Cả buổi chiều mưa dầm, người cựu phi công này cứ trầm ngâm tâm sự chuyện đời mình với tôi. Anh sinh năm 1948, trong một gia đình bần cố nông ở ngay mảnh đất nay đang ở. Khi anh đỗ tú tài cũng là lúc anh bị bắt quân dịch trong đợt tổng động viên năm 1968.
Sức khỏe tốt, lại có học hành chút ít, anh bị chuyển qua dự bị không quân. Rồi năm 1971, anh bị đưa thẳng sang Mỹ tập lái A37. Chính những ngày tháng sống trên đất người này đã giúp anh cảm nhận về một cái gì đó không ổn trong cuộc chiến của những kẻ giàu có thừa máy bay, bom đạn trên đất nước nghèo khó quê hương anh.
Năm 1973, anh bị đưa về Không đoàn Đà Nẵng. Viên trung úy phi công trẻ này trở thành một cái gai trong mắt chỉ huy khi liên tục có những hành vi "ngang ngược, chống lệnh". Nhiều phi công cùng khóa đã nhanh chóng thăng tiến, còn anh cứ dậm chân tại chỗ cũng vì lẽ đó...
Khi cảm nghiệm về cuộc chiến tranh phi nghĩa đã định hình rõ trong anh để chuẩn bị đi đến quyết định quan trọng thì đoàn quân cách mạng đã giải phóng Đà Nẵng. Có sẵn máy bay trong tay, nhưng anh không rút lui về Sài Gòn cũng không trốn chạy ra nước ngoài như nhiều phi công khác.
Tuy nhiên, khi quyết định ra trình diện quân cách mạng và đề đạt nguyện vọng xin được chiến đấu, thật sự anh cũng chưa tin mình có thể được tin tưởng. Nhưng rồi nguyện vọng đó đã được chấp nhận, không chỉ vì lý lịch cơ bản tốt hay một hồ sơ “chống lệnh” dày cộp của viên phi công Sài Gòn, mà còn bởi đôi mắt dám nhìn thẳng để nói lên sự thật của trái tim một người mang dòng máu Việt.
Ngồi nhìn vợ con đang tỉ mẩn sàng sẩy những hạt lúa lép trên hàng hiên xiên xiên bóng nắng sau cơn mưa, On tâm sự với tôi rằng anh không thể quên được cảm giác xúc động khi lần đầu tiên cởi bỏ quân phục Sài Gòn để thay bằng bộ đồ người lính cách mạng.
Rồi suốt hơn 30 năm nay, nhiều người vẫn hỏi On đã được tin tưởng, giao cho nhiều trọng trách quan trọng trong một binh chủng hào hùng như thế, tại sao lại lặng lẽ trở về? Anh chỉ cười, trả lời: “Gia đình tôi bao đời sống với cái cày, cái cuốc. Tôi vẫn nghĩ mình hợp với cuộc sống thanh bình chốn ruộng đồng hơn...”.
Lặng lẽ nhìn ánh mắt On mơ màng nhìn ra cánh đồng mạ đang thì xanh mướt, tôi cảm nhận được tâm trạng của anh. Người Việt Nam có câu nói yêu nước “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, nhưng chắc chắn đâu có ai muốn chiến tranh...
Quốc Việt