|
Post by truongtuphong on Jul 25, 2009 10:28:03 GMT -5
Một Số Lý Thuyết Của Tân Cổ Và Cải LươngNgành âm nhạc cổ truyền rất đa dạng và phong phú, mỗi ngày càng đi sâu vào đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc. Thực tế nó là nhịp cầu giao lưu trong lỉnh vực văn hóa nghệ thuật cùng chiều hướng đi song song trên đà đổi mới của bộ môn sân khấu cải lương hiện nay. Vốn là di sản thiêng liêng quý báo do ông cha để lại, chúng ta là người thừa kế phải có bổn phận quan tâm, chăm sóc bằng cách bảo vệ và phát huy, quảng bá ngành âm nhạc cổ truyền (tài tử và cải lương) được thắm nhuần trong tinh thần quần chúng để nó mãi mãi được tồn tại trong quần chúng. Với lý do trên, tôi là một nhạc sĩ tự thấy mình có một trách nhiệm góp chung công sức để vun bồi nền âm nhạc Việt Nam thêm phần phong phú. Vì thế tôi cố gắng biên sọan tập bài ca dành riêng cho ngành sân khấu cải lương (một bên là lời ca, một bên có bản nhạc đối chiếu. Đại bộ phận là các bản nhỏ cũ và các bản lớn mới sáng tác sau này). Mong sao tập bài ca này là một tư liệu hữu ích để các anh chị em nghệ sĩ tham khảo, nghiên cứu trên cở sở phục vụ chung cho ngành văn hóa nghệ thuật. Tôi hân hạnh được đón nhận sự góp ý xây dựng chân thành của quý vị để tập bài ca này được thực hiện hòan chỉnh hơn. Nhạc sĩ Mười Phú ------------------------------ Đây là tài liệu do NS Mười Phú tặng cải lương Việt Nam. Xắp xếp theo thứ tự A, B, C,... 1. A: - Ái Tử Kê - Ánh Nắng - Ánh Trăng 2. B: - Bắc Sơn Trà - Bắn Nhạn - Bài Tạ - Bá Hoa - Bình Bán Vắn 3. C: - Cao Phi - Chi Hoa Trường Hận - Chiêu Quân - Chinh Phụ - Chuồn Chuồn 4. D: - Dì Phạnh - Duyên Kỳ Ngộ (cải lương) - Đỏan Khúc Lam Giang - Đăng Sơn Lãm Thủy 5. G: - Giang Tô 6. H: - Hàn Giang - Hành Vân - Hướng Mã Hồi Thành - Hòai Tình 7. K: - Khỗng Minh Tọa Lầu - Khóc Hòang Thiên - Khúc Ca Hoa Chúc - Kiều Nương - Kim Tiền Bản - Kim Tiền Huế 8. L: - Lạc Âm Thiều - Lạc Xuân Hoa - Lệ Rơi Thắm Lá - Liêu Giang - Liễu Thuận Nương - Long Hổ Hội - Long Nguyệt - Lưỡng LOng Tranh Châu - Lưu Thủy Hành Vân - Lưu Thủy Đỏan - Lý Ba Tri - Lý Cây Bông - Lý Cái Mơn - Lý Chia Tay - Lý Trăng Soi - Lý Chim Quyên - Lý Chiều Chiều - Lý Chiều Chiều (Huế) - Lý Chim Xanh - Lý Con Khỉ - Lý Con Sáo - Lý Con Sáo (Gò Công) - Lý Giao Duyên - Lý Hoa Dừa - Lý Lu Là - Lỳ Mù Sương - Lý Mỹ Hưng - Lý Đất Giồng (Tình tang) - Lý Đêm Trăng - Lý Ngựa Ô Bắc - Lý Ngựa Ô Nam - Lý Đồng Quê - Lý Phước Châu - Lý Phước Kiến - Lý Qua Cầu - Lý Sâm Thương - Lý Son Sắt - Lý Thập Tình - Lý Tương Phùng 9. M: - Mẫu Tầm Tử - Mạnh Lệ Quân - Miên Hậu Hồi Cung - Mẫu Đơn 10. N: - Nặng Tình Xưa - Ngự Giá Đăng Lâu - Ngũ - Điểm - Nhạn Về 11. P: - Phi Vân Điệp Khúc - Phong Ba Đình - Phong Nguyệt - Phụng Hòang 12. Q: - Quý Phi Túy Tửu 13. S: - Sơn Đông Hướng Mã - Song Phi Hồ Điệp - Sương Chiều 14. T: - Tân Xái Phỉ - Tam Pháp Nhập Môn - Tô Võ - Tấn Phong - Trăng Thu Dạ Khúc - Trung Thu - Trạng Nguyên Hành Lộ - Thu Hồ - Thu Hồ Diệp Lạc - Thu Phong - Thuấn Hoa - Từ Bá Tuấn - Tứ Quy Từ - Tùng Lâm - Tú Anh 15. U: - Ú Liu Ú Sáng - Uyên Ương Hội Vũ 16. V: - Văn Thiên Tường - Vạn Huê Trường Hận - Vọng Kim Lang 17. X: - Xang Xừ Líu - Xàng Xê - Xái Phỉ.
|
|
|
Post by truongtuphong on Jul 25, 2009 10:30:38 GMT -5
Giọng ca cải lương hơn 2/3 giống giọng hát bội. Cũng giọng Bắc, Óan, Nam, Lý, Bình, Ngâm, Hò, Nói thơ và giọng Quảng. Ở lãnh vực giọng Bắc, phải nói lối Bắc và ca Bắc. Bên cải lương, nói lối Bắc không cần đờn "bè" hơi theo lối Xuân giống như bên hát Bội. Nói lối giọng Bắc Cải Lương chậm, phát âm rõ ràng và nghiêm nghị. Ca Bắc, nghệ sĩ ca hơi vui, xử dụng tả cảnh vật thiên nhiên , trời đẹp, đêm trăng thanh sáng vằng vặc, bến nước, dòng sông, ao, hồ...những cảnh vật nên thơ, xinh tươi. lấy 1 đọan trong Lưu Thủy Trường làm thí dụ: Vào chốn này thỏa tình ước mong Nhìn xem phong cảnh rất tọai lòng Kìa nhành thông gió thổi lao xao Nọ hoa cỏ đượm đưa mùi vị ngọt ngào, Cảnh chào người rất xinh thay.
Lối ca Bắc, ngòai ra còn dùng để tả tâm trạng của nhân vật có chí khí anh hùng, một lòng yêu nước, hy sinh cuộc đời khi quê hương gặp cảnh lâm nguy (Khóc Hòang Thiên)
Giọng Bắc còn có thể diễn tả hòan cảnh sanh ly tử biệt , tướng thất trận, vua vong quốc hoặc tình bạn thân thiết nhưng đột nhiên phải xa lìa nhau (Xàng Xê, Xuân Tình)
Lối ca Bắc rất hợp lý nếu trong tuồng viết ở đọan tả chí hướng của 1 người trai uất hận lúc chứng kiến cảnh tổ quốc bị ngọai xâm dày xéo (Khổng Minh Tọa Lầu)
Một tuồng cải lương, lối ca Bắc còn rất nhiều bài bản khác , bởi giọng Bắc là giọng rất thông dụng . Các bản ca giọng Bắc có bài dài, bản vắn. các bản dài, Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Phú Lục, Bình Bán Chấn, Cổ Bản, Xuân Tình. Bảy bài bản chính yếu: Xàng Xê, Ngũ Đối Thượng, Ngũ Đối Hạ, Long Đăng, Long Ngâm, Văn Giá, Tiểu Khúc. Bản vắn để xài thừơng xuyên: Hành Vân, Bình Bán Vắn, Lưu Thủy Đòan, Kim Tiền, ngũ Điểm Mai, Lưu Thủy Cao Sơn, Thu Hồ, Tam Pháp Nhập Môn, Khóc Hòang Thiên, Long Hổ Hội, Khổng Minh Tọa Lầu, Mẫu Tầm Tử, Xang Xừ Líu, Sơn Đông Hướng Mã, Ngự Giá, Bá Hoa, Mạnh Lệ Quân, Tứ Đại Cảnh, Minh Châu, Bắc Sơn Tra, Lưu Thủy Tẩu Mã, Hướng Mã Hồi Thành..v... Từ năm 1955 trở về sau nầy, các bài bản bắc theo điệu ca Bắc dần dần xuất hiện trong tuồng Cải Lương như các bài: Minh Hòang Thưởng Nguyệt, Ngự Giá Đăng, Phò Mã Giao Duyên, Tùng Lâm Dạ Lãm, Tống Phong, Giang Tô, Phong Nguyệt, Uyên Ương Hội Vũ, Cung Thềm Bán Nguyệt, Hồ Điệp Song Phi, Tứ Bát Chánh, Dạ Hành, Lịễu Thuận Nương, Thu Phong, Long Nguyệt, Phong Ba Đình, Duyên Kỳ Ngộ, Nặng Tình Xưa, Lạc Xuân Hoa, Đăng Sơn Lãm Thúy. Thêm vào đó, lại có những bản mới sáng tác cuối năm 1960: Sương Chiều, Tú Anh, Ánh Nắng, Trôi Nổi Phong Trần, Lệ Rơi Thấm Đá, Gió Hờn, Nhạn Về..v..v Điệu ca Bắc còn có 8 bài Ngự nhưng các đòan nhỏ không đủ giàn đờn để hòa tấu, ngọai trừ các đại ban: Đường Thái Tôn, Vọng Phu, Chiêu Quân Ái Tử Kê, Bát Man Tấn Cống, Duyên Kỳ Ngộ, Tương Tư (bắt từ giọng Nam chuyển sang), Quả Phụ Hàm Oan (dựa theo hơi Óan). Thỉnh thỏang, nếu viết tuồng giả sử, sọan giả xài 10 bản Trung Hoa: Thẩm Tuyết, Ngươn Tiêu, Hồ Quảng, Liên Hườn, Bình Nguyên, Tây Mai, Kim Tiền Huế, Xuân Phong, Long Hổ, Tẩu Mã.
Sau giọng Bắc là giọng Óan, giọng Óan là 1 giọng khá đặc biệt, nguồn gốc xuất phát từ miền Nam. Nhạc sĩ đờn Óan thường xuyên khảy dây Hồ (còn gọi là dây chinh) và dây Tố Lan. Các nhạc sĩ miền Nam sáng chế ra 2 dây này và bài Óan xuất hiện lần đầu tiên là do trích từ bài Tứ Đại. Ca Óan dù rằng nghe sầu não nhưng không kém phần trang nghiêm và hùng mạnh. Những nghệ sĩ biết ca bài Tứ Đại đều có chung nhận xét như vừa kể. Tác giả sáng tạo bài Tứ Đại là 1 nhạc sư đa tài, làm thơ rất hay. Nghiên cứu bản Tứ Đại, những nhà nhạc học phải nhìn nhận bản Tứ Đại hình thành bằng 1 bài thơ bát cú. Phương pháp cấu trúc của bản Tứ Đại dựa theo vần bình trắc của 1 bài thơ Đường luật. Cũng như lối ca Bắc, trong giọng Óan có nhiều bản như: Giang Nam, Phụng Cầu, Phụng Hòang, Văn Thiên Tường, Bình Sa Lạc Nhạn, v...v Bản Văn Thiên Tường hát hơi trầm bổng, êm dịu, là 1 điệu Óan hay nhất. Văn Thiên Tường viết cho những vai đào, kép tả trong lúc chia tay, hoặc vĩnh biệt nói lên tâm sự đau buồn quyến luyến của tình yêu, tình chồng vợ.
Trong cải lương giọng thê lương, bi thảm nhất là giọng Nam. Là vì trong giọng Nam thường nói lối điệu Ai và hát Nam. Lối Ai nói ngân nga thật chậm, người nghe não nùng bi thương, và viết theo câu văn vần, nghệ sĩ trước khi chuyển hơi qua ca Óan hay ca Nam, vai tuồng lúc nào cũng phải có nói lối Ai, nhiều gánh có đàn bản Xuân Nữ đưa hơi câu nói lối Ai. Bản Xuân Nữ người trong nghề gọi là Nam Rịn, bản nhạc có tác dụng gây cảm xúc khiến người nghe thấm thấu trong lòng buồn vô tả. Điệu ca Nam được chia thành 2 lọai: -Các lọai Nam Chính thức: Nam Xuân, Nam Ai, Nam Chạy, Nam Bình, Đảo Ngũ Cung. -Loại Nam biến thể từ giọng ca Bắc: Hành Vân, Chuồn Chuồn và Vọng Cổ. Bản Nam Xuân hát theo nhịp lơi nhưng láy theo giọng ca Bắc, nhạc sĩ đờn nhấn phím công phu, chăm chí hơn đờn điệu Bắc, điệu Nam Xuân thâm trầm, dịu dàng ít ai óan hơn Nam Ai. Ban đầu bản Nam Xuân viết thành 8 lớp, mỗi lớp 8 câu. Thập niên 50 bản Nam Xuân đờn rút lại còn 20 câu để bắt qua Nam Ai, 8 câu trong mỗi lớp đều hạ 1 vần Bản Nam Ai ca chậm lại nhịp lơi hơn Nam Xuân rất nhiều. Nam Ai nghe đau đớn, bi thảm để tả tình cảnh thống thiết nhất trong vở tuồng, Nam Ai cấu tạo thành 14 lớp (gồm 4 lớp phản Xuân) mỗi lớp vẫn viết 8 câu, cùng "xuống" 1 vần như Nam Xuân.
Đảo Ngũ Cung là 1 bản độc nhất vô nhị của Cải Lương Vietnam, có 1 giọng hùng hồn, rào rạt dễ quyến rủ người nghe, bản Đảo Ngũ Cung 6 câu đầu viết hạ cùng 1 vần trắc nên nghe 'xóc" và cảm thấy "dựng" lên trong đầu. Bản có 8 lớp, mỗi lớp có 8 câu và hạ 1 vần.
Vở tuồng nếu viết những vai giặc vây thành, hay bị truy nã, diễn viên vừa ca vừa chạy gọi là Nam Chạy, bản Nam Chạy là do sự phối hợp của 2 lớp trống trong bản Nam Ai. Ca nhanh đờn thúc để trùng hợp với động tác diễn trong lúc chạy giặc.
Bản Nam Bình trong giới Cải Lương thường gọi là bản Trường Tương Tư. Bản này gốc ở triều đình Huế đem vào miền Nam năm 1930. Bản Nam Bình điệu hát nhẹ nhàng thư thả ít thảm sầu hơn bản Nam Ai.
Sau hết là giọng Nam lai hơi Bắc, thể hiện cho giọng này có 3 bản: Hành Vân, Chuồn Chuồn, Vọng Cổ. Gốc Hành Vân là điệu Bắc, nhưng khi sử dụng để phô diễn tâm sự ưu phiền thì bản nhạc biến thể theo điệu Nam, ca nhịp lơi, ngân dài. Khỏang thập niên 30 bản Chuồn Chuồn ca hơi Bắc, đến đầu thập niên 60 đổi lại ca theo hơi Nam với mục đích vô cho "mùi" Vọng Cổ. Điệu Chuồn Chuồn dùng để tả cảnh binh biến, gặp tai nạn..v..v
|
|
|
Post by truongtuphong on Jul 25, 2009 10:36:37 GMT -5
VỌNG CỔ CÂU 1 :Cấu trúc: (HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24 (SL), XANG 28, CỐNG 32) Nhịp 16 & 20 là cặp: HÒ-HÒ. Nhịp 16 là điểm xuất phát cho những câu vọng cổ có HÒ 16 và HÒ 20 đi liền (như câu 1, 2, 4, 5) vì từ nhịp 16 trở đi, những câu này đi theo một TEMPO giống hệt nhau và thuờng được diễn tả là rất... mùi ! Nhịp 24 (SL) tận cùng bằng note: XÊ Câu 1 chỉ có 16 nhịp và trước nhịp 16 thường là ngâm thơ, nói lối, tân nhạc v.v... trong lúc đó thì nhạc sĩ cũng ad. lib, gọi là "RAO". Khi ca sĩ bắt đầu "vô" thì đàn ngưng lại đến đúng nhịp 16 thì cả hai bên, người hát lẫn người đàn phải vào cùng 1 lúc đúng ngay chổ "note" HÒ. Do đó ký âm bài này được bắt đầu từ nhịp 16 HÒ. Phần RAO được nói trong 1 phần riêng (xem lại phần đầu KHÁI NIỆM, tiểu đoạn 10). Sau phần ngâm ad. lib lúc ca sĩ "vô vọng cổ" xuống chữ HÒ thì nhạc sĩ phải "NHỒI" (xem lại phần đầu KHÁI NIỆM, tiểu đoạn 11). Lời ca: - TRUỚC HÒ 16 thuờng là ngâm sa mạc, nói lối hoặc tân nhạc. Thông thuờng là 4 câu văn hoặc có thể dài hơn. - HÒ 16-20 ÐI LIỀN nhau, luôn luôn dấu HUYỀN - HÒ 20 chỉ có MỘT câu văn (lời ca) mà thôi, bởi vì khi ca-nhạc-sĩ cùng vào 1 lúc ở nhịp 16 nghe rất mùi ,khán giả có thì giờ vổ tay. Ca sĩ có thì giờ lấy hơi... (lời ca những nhịp khác có HAI câu văn) - XÊ 24 (SL) luôn luôn không dấu, - XANG 32 không dấu, - XANG 28 dấu gì cũng được, không bị chi phối bởi luật bằng trắc, và cũng không được thống nhất nên có thể là XÊ hay XANG. - CỐNG 32 ở câu 1 phải là vần trắc (ký âm câu VC1 nam) (mp3 solo guitar VC1 nam) www.vphausa.org/vphavn/vanhoc/vo ... %20nam.mp3 [mp3 solo guitar RAO & VC1 nam] www.vphausa.org/vphavn/vanhoc/vo ... %20nam.mp3 MỘT THÍ DỤ CHO CÂU VC1: (HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24, XANG 28, CỐNG 32) Xuân trong mùa Ðông [mp3 vc1 Xuân Trong Mùa Ðông] www.vphausa.org/vphavn/vanhoc/vo ... %20CVC.mp3 (Ngâm/nói ad lib) Chàng ơi... trời hôm nay sao thiệt lạnh lẽo Nhưng sao em không cảm thấy lòng đông gíá Có phải chăng vì hồn em đang được sưởi ấm bởi tình chàng... (HÒ 16 vào tempo) Từ thuở nào năm ấy em (đã) biết chàng (HÒ 20) Xuân đi, Hè đến, Thu về, Ðông tới Em vẫn thường nghĩ đến chàng luôn (XÊ 24) Lòng em vẫn chan-chứa mối sầu vương Chàng đã mang lại tình yêu và nguồn sinh khí (XANG 28) Một tình yêu nhẹ nhàng không điều kiện Mối tình ta chỉ có không gian chứng kiến. (CỐNG 32)
Bài thí dụ trên đây có hình thức của câu 1 vọng cổ, nhưng chỉ cần hoán chuyển câu cuối là có thể hát thành câu 2 (xem bài Vọng Cổ câu 2 Nam tới đây)
... Một tình yêu nhẹ nhàng không điều kiện Chỉ một không gian vũ trụ chứng kiến mối tình ta. (XANG 32)
|
|
|
Post by truongtuphong on Jul 25, 2009 10:40:41 GMT -5
VỌNG CỔ CÂU 2 Cấu trúc: (XỀ 4, XANG 8, XANG 12, HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24 (SL), XÊ 28, XANG 32) Câu Vọng cổ bắt đầu luôn luôn là XỀ 4 (ngoại trừ câu 1 & 4 chỉ có 16 nhịp). Thường thường và dễ ca nhất là bắt đầu vào ở nhịp 16 nếu lời ca ngắn. Nếu lời ca dài thì bắt đầu ở nhịp 8, 10, 12... v.v.. (đầu, giữa hoặc cuối câu). Nhịp 16 là điểm xuất phát cho những câu vọng cổ có HÒ 16 và HÒ 20 đi liền như câu 1, 2, 4, 5 vì từ nhịp 16 trở đi, những câu này đi theo một TEMPO giống hệt nhau và thuờng được diễn tả là rất... mùi ! Lời ca: - Từ XỀ 4 cho đến XANG 12: nhạc đệm, luật bằng trắc không quan trọng. - HÒ 16 và HÒ 20 ÐI LIỀN nhau nên cấu trúc lời ca giống như câu 1 kể từ nhịp 16. - HÒ 16-20 luôn luôn dấu HUYỀN - XÊ 24 (SL) luôn luôn không dấu, - XÊ 28 dấu gì cũng được. - XANG 32 không dấu. [ký âm câu VC2 nam p1] [ký âm câu VC2 nam p2] [mp3 solo guitar VC2 nam] www.vphausa.org/vphavn/vanhoc/vo ... %20nam.mp3 HAI THÍ DỤ CHO CÂU VC2: (HÒ 16, HÒ 20, XÊ 24, XÊ 28, XANG 32) TD1: Xuân trong mùa Ðông (Ðàm Giang 31/12/2001) (Ngâm/nói ad lib) Chàng ơi... trời hôm nay sao thiệt lạnh lẽo Nhưng sao em không cảm thấy lòng đông giá Có phải chăng vì hồn em đang được sưởi ấm bởi tình chàng... (HÒ 16 vào tempo) Từ thuở nào năm ấy em (đã) biết chàng (HÒ 20) Xuân đi, Hè đến, Thu về, Ðông tới Em vẫn thường nghĩ đến chàng luôn (XÊ 24) Lòng em vẫn chan-chứa mối sầu vương Chàng đã mang lại tình yêu và nguồn sinh khí (XANG 28) Một tình yêu nhẹ nhàng không điều kiện Chỉ một không gian vũ trụ chứng kiến mối tình ta. (XANG 32) Một điểm nữa đáng chú ý ở đây là nếu chữ cuối của câu chót tận cùng bằng HÒ 32, thì câu hát sẽ thành vọng cổ câu 4, hoặc bằng XỀ 32 thì sẽ hát thành câu 5. Câu 4: "Xuân trong mùa Ðông": Một tình yêu nhẹ nhàng không điều kiện Chỉ một không gian vũ trụ chứng kiến mối tình mình (HÒ 32) (note LA) Câu 5: "Một đóa hoa Quỳnh" Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt Còn hơn ta quay quắt một kiếp người (XỀ 32) (note Mi) TD 2 : Diễn Ðàn Dược Khoa: Mới có Hai Năm. [mp3 DDDK2nam] www.vphausa.org/vphavn/vanhoc/vo ... %20CVC.mp3 Thấm thoát đã hai năm ròng rã Từ ngôi nhà đơn sơ, góp ý Dược Tình đồng nghiệp chúng ta người dân nước Việt Năm Châu bốn bể, chẳng hề phân biệt Cùng chung lưng sát cánh lên đường (HÒ 16) Nay đà vững tuổi, vừa chẵn hai năm trường (HÒ 20) Con thuyền Dược trên con đường lướt sóng Ðôi ba lần cũng gặp phải phong ba (XÊ 24) Có thử thách mới tôi luyện tấm lòng ta Có sóng gió dạ can trường mới tỏ (XÊ 28) Mừng diễn đàn chúng ta cùng chung sức Những ngày Xuân đang náo nức chung vui (XANG 32)
|
|
|
Post by truongtuphong on Jul 25, 2009 10:45:47 GMT -5
VỌNG CỔ CÂU 3 Cấu trúc: (XỀ 4, XANG 8, XANG 12, CỐNG 16, XANG 20, CỐNG 24 (SL), XÊ/XANG 28, HÒ 32) Ðặc biệt cho câu 3 vọng cổ chúng ta thấy NHỊP 28 có thể là XÊ hoặc XANG, lời ca không thay đổi. Phần đầu không có chi thay đổi. Nhạc có thay đổi từ nhịp 25 trở đi. Câu Vọng cổ bắt đầu luôn luôn là XỀ 4 (ngoại trừ câu 1 & 4 chỉ có 16 nhịp). Nhịp 16 & 20 là cặp CỐNG-XANG. Nhịp 24 (SL) tận cùng bằng note CỐNG. (Nhịp 24 song lang luôn luôn tận cùng bằng 3 notes : XÊ , CỐNG , XỆ) Câu Vọng cổ kết thúc ở nhịp 32 bằng note HÒ. (Câu Vọng cổ kết thúc ở nhịp 32 gồm 4 notes chính : CỐNG, XANG, XỀ, HÒ) Lời ca: - Câu 3 thuờng lời ca khá dài nên ca-sĩ thuờng vào ở đầu, giữa hoặc cuối nhịp 8, 10, 12... v.v... Nếu lời ca ngắn vẫn có thể vào ở nhịp CỐNG 16 . - Từ XỀ 4 cho đến NHỊP 12 (XANG, HÒ): nhạc đệm, luật bằng trắc không quan trọng. - XANG/XÊ 28 dấu gì cũng được. (XÊ và XANG trong nhịp 20 và 28 không bị chi phối bởi luật bằng trắc, và cũng không được thống nhất nên có thể là XÊ hay XANG.) (XÊ 28 giọng Nam, XANG 28 giọng Nữ lời ca vẫn không thay đổi, vì note XANG (RÉ) luôn luôn được nhấn xuống trên phím đàn cho đến khi nghe ra được note XÊ (MI), thì mới hay và lả lướt, đó là note duy nhất mà Computer không diễn đạt được. Tuy nhiên khi hòa tấu, để đơn giản hóa, mọi nhạc cụ thường chơi XÊ 28.) - Ðặc biệt CỐNG 16 không nhất thiết phải là vần trắc, dễ ca nhất là không dấu. - CỐNG 24 (SL):KHÔNG DẤU vì vậy câu 3 giọng ca "ngang-ngang", khó ca, ca sĩ phải có trình độ! - HÒ 32 phải là dấu HUYỀN [ký âm câu 3 XÊ trang 1] [ký âm câu 3 XÊ trang 2] [ký âm câu 3 XANG phần thay đổi từ nhịp 25] [mp3 solo guitar VC3 nam XÊ] www.vphausa.org/vphavn/vanhoc/vo ... m%20Xe.mp3 [mp3 solo guitar VC3 nam XANG] www.vphausa.org/vphavn/vanhoc/vo ... 20Xang.mp3 MỘT THÍ DỤ CHO CÂU VC3: (XANG 12, CỐNG 16, XANG 20, CỐNG 24, XANG 28, HÒ 32) Buồn Viễn Xứ [mp3 Buồn Viễn Xứ] www.vphausa.org/vphavn/vanhoc/vo ... %20CVC.mp3 Thấm thoắt đã hơn hăm sáu năm trường Ngày tàn thu chợt buồn nhớ cố hương (XANG 12) Non sông cách trở nào có xá chi nghìn trùng, Nhớ nhà, nhớ nước vẫn một lòng son sắt (CỐNG 16) Cũng chỉ tại những con đường khác biệt Như trời trăng mưa nắng, đá vàng thau (XANG 20) Khiến ta lang thang nơi đất khách từ thuở đó Chẳng hề quên mối thâm tình cố quận thân yêu (CỐNG 24) Nhớ thương quê nhà hai mùa mưa nắng Có đàn em thơ và mẹ già trông ngóng đợi chờ (XANG 28) Ôi ngày đêm khắc khoải tình viễn xứ Ngàn dặm sơn khê vẫn nhỏ lệ mong ngày về (HÒ 32)
|
|