Post by truongtuphong on Jul 18, 2009 2:01:51 GMT -5
Phân kỳ lịch sử Văn học từ đầu thế kỷ XXI - Phần I
Nguyễn Huệ Chi
Một vài vấn đề phân kỳ lịch sử Văn hóa nhìn từ điểm đầu của thế kỷ 21
Phân kỳ lịch sử văn học bao giờ cũng là một vấn đề có sức hấp dẫn đối với người viết văn học sử, bởi đó là cái chìa khóa then chốt để có thể nhận diện văn học như sự nối tiếp của nhiều tiến trình. Ở điểm bắt đầu của thế kỷ XXI này, chắc có lẽ người nghiên cứu văn học nào cũng muốn nhìn lại, muốn có một sự hình dung tổng quát về các bước đường đã qua của văn học Việt Nam trong vòng 11 thế kỷ, chí ít là trong một thế kỷ vừa mới kết thúc, để dự liệu bước đi của nó trong thế kỷ đang tới.
Bản thân người viết bài này tuy đã ba lần bàn đến phân kỳ lịch sử văn học dân tộc vào các năm 1985(1) , đầu 1990(2) và cuối 1990(3) nhưng giờ đây vẫn cứ muốn xem xét lại chỗ sai chỗ đúng, chỗ khả thủ và chỗ bất cập trong nhận thức của chính mình, trên vấn đề quan trọng này. Tuy nhiên, ngẫm nghĩ kỹ thì đây là một vấn đề không đơn giản. Bởi lẽ, trong 15 năm qua đã diễn ra những sự kiện đảo lộn có tầm thế giới, có khả năng làm thay đổi quan niệm của chúng ta về cấu trúc lịch sử, trong đó có cấu trúc của lịch sử văn học. Nếu nói thật khoa học thì yêu cầu đặt ra là phải nhìn lại cái đã diễn ra như nó có bằng một hệ quy chiếu mới thay thế cho hệ quy chiếu cũ đã mất sức thuyết phục, và do đó, nhiều điều phải nhìn lại tận gốc và nhìn lại từ đầu. Vì thế, bài viết này chưa có tham vọng giải quyết tất cả mọi vấn đề của phân kỳ lịch sử văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X cho đến tận hôm nay. Chúng tôi chỉ xin nêu lên mấy gợi ý về một số mốc phân đoạn văn học viết Việt Nam qua các thời kỳ, và tất nhiên là còn rất sơ lược.
XÁC ĐỊNH MỘT VÀI NGUYÊN TẮC PHÂN KỲ
Trước hết xin trở lại với một vài nguyên tắc chung về việc phân kỳ lịch sử văn học mà tôi đã từng đề xuất. Cần nói rằng, quan tâm đến vấn đề này về mặt lý thuyết, không phải chỉ có mình tôi mà còn có các nhà nghiên cứu khác. Ngoài những học giả đi trước, cùng một thời điểm với tôi còn có các Gs. Nguyễn Lộc (4) , Trần Đình Hượu (5) , Đỗ Đức Hiểu (6) , và gần đây hơn cả là Gs. Trần Đình Sử (7). Trong chừng mực nào đó, khi trình bày vấn đề, tôi sẽ kết hợp đề cập đến ý kiến của các ông.
Khác với nhiều ý kiến muốn coi phân kỳ văn học hoàn toàn trùng hợp với việc tìm tòi các dạng thức biểu hiện của những quy luật đặc thù đã chi phối sự vận động của mọi tiến trình văn học sử, tôi cho rằng phân kỳ chủ yếu là đi tìm những quy ước thuận tiện nhất, nhằm trình bày một cách sáng tỏ các chặng đường lớn nhỏ của lịch sử văn học Việt Nam. Bởi lẽ, theo tôi, tìm cho được cái quy luật của chính văn chương đã chi phối các hiện tượng, các trào lưu... diễn ra trong một khoảng thời gian nào đó, để ấn định rằng đó đích thực là một giai đoạn hoặc một thời kỳ văn học có tính độc lập tương đối, là việc lý tưởng nhưng không kém khó khăn. Một giai đoạn văn học bao giờ cũng được hình thành do nhiều yếu tố, có yếu tố nội tại và có yếu tố bên ngoài, có cả những yếu tố ngẫu nhiên, mà nhìn cho ra cái nào là bản chất nhất, đâu phải dễ dàng. Có khi giữa một chặng đường này và một chặng đường kế tiếp, diện mạo và chiều hướng của văn học có vẻ vẫn giống nhau, trách nhiệm xã hội và yêu cầu mỹ học đối với văn chương vẫn chưa thay đổi, nhưng sâu bên trong, do tác động thầm kín của lịch sử, chuyển động của sáng tác đã không còn như cũ. Bảo rằng đấy vẫn chỉ là một giai đoạn thôi thì đành là không ổn, song để phân suất cho được đâu là phẩm chất cốt lõi làm nên bước ngoặt mới, nếu chúng ta thực sự cầu thị chứ không gò gẫm khiên cưỡng, chỉ cốt nói lấy được, hẳn chưa chắc đã dám nói quyết đấy là gì.
Mặt nữa, văn học thường bao giờ cũng diễn biến theo quy luật tiệm tiến, thảng hoặc lắm mới chứng kiến một bước tiến nhảy vọt, một đột biến khác thường. Và giữa quá trình sau với quá trình trước bao giờ cũng có sự giao thoa, xen kẽ, chứ ít khi đứt đoạn. Đem một cái mốc cắm vào cho lịch sử văn học, vô hình trung ta đã tạo ra một mặt cắt trái với tự nhiên, làm cho văn học không còn phản ánh đúng sự vận động tự thân của nó. Vì thế, dựa vào ý kiến của Karl Marx trong "Lời nói đầu" bộ Tư bản phân biệt lôgic nghiên cứu và lôgic trình bày, rằng lôgic trình bày cần phản ánh lôgic nghiên cứu nhưng không nhất thiết theo sát lôgic nghiên cứu, tôi cho rằng phân kỳ lịch sử văn học là thuộc về lôgic trình bày. Nó là quy ước nhận diện và trình bày lịch sử văn học. Tất nhiên, đã là quy ước thì không ai lại nghĩ rằng chỉ có một cách trình bày nào đấy là tuyệt đối đúng. Nếu như lôgic nghiên cứu giúp ta nhận thức bản chất của sự vận động thì lôgic trình bày giúp ta miêu tả bản chất ấy bằng các hình thái vận động tương ứng, qua đó người đọc có thể tiếp nhận đối tượng một cách nhất quán, phù hợp với nhận thức của mình. Tùy theo tính chất từng loại quy ước mà lôgic trình bày có thể rất khác nhau, miễn sao quy ước - từ bên ngoài đối tượng - phải nhập thân vào đối tượng và soi rõ trình thức và bước đi của đối tượng. Mỗi bộ văn học sử tuân thủ một quy ước trình bày riêng, cũng tức là xác định phương pháp loại biệt của bộ sử đó, trên cơ sở một đối tượng chung là lịch sử văn học. Xét trên phương diện này, quy ước trình bày nào cũng có thể phát huy được ưu điểm nếu được sử dụng đúng đắn, trong đó không loại trừ cách trình bày văn học theo thế kỷ hay theo triều đại mà các nhà viết văn học sử trước Cách mạng tháng Tám đã từng làm, vốn cũng khá thích hợp với số đông bạn đọc chúng ta quen tư duy theo thời gian, theo thập kỷ và thế kỷ, hoặc quen nhận diện quá khứ theo tên gọi của các vương triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn.
Ý kiến trên đây của tôi nêu ra cách nay đã 15 năm, năm 1990 được bổ sung và viết lại để in vào cuốn Các vấn đề của khoa học văn học do PGs. Trương Đăng Dung chủ biên. Không ngờ trong bộ sách này cũng có một bài viết của Klanixoi Tiborơ bàn về khái niệm thời kỳ văn học; tác giả người Hung đó cũng tóm lược hai chủ trương phân kỳ đối lập nhau trong văn học sử châu Âu gần đúng với tình hình giới nghiên cứu nước ta cùng thời điểm trên (8) . Cần nói rằng ở miền Nam trước 1975, học giả Thanh Lãng đã từng có một quan niệm phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam tương đối thấu đáo. Trong sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam công bố năm 1967, sau khi điểm lại cách phân chia thời kỳ văn học của các bộ văn học sử đã xuất hiện cho đến đầu những năm 60 (kể cả các bộ văn học sử của miền Bắc), Thanh Lãng đã đưa ra một nguyên tắc then chốt làm tiêu chí phân kỳ cho mình : "Chúng ta không võ đoán, đề cao hay chối bỏ một tiêu chuẩn nào trong các tiêu chuẩn mà các nhà đi trước áp dụng như tiêu chuẩn triều đại hay thế kỷ, nhưng chúng ta chỉ chấp nhận là tiêu chuẩn khi nào quả thực cái tiêu chuẩn ấy có bế mạc hay khai mạc một cái gì gọi là cái vốn chung cho một thời đại và riêng biệt cho chính thời đại ấy" (9) ; "Nói tóm lại, tiêu chuẩn của chúng ta theo để chia thời kỳ cho văn học là lựa chọn một niên lịch nào đó (có thể là một niên lịch chính trị, lịch sử, văn học, hay thế kỷ) đã xô đẩy những biến cố văn học - tôi nhắc đến bốn chữ biến cố văn học - khiến cho với những biến cố ấy, niên lịch ấy :
- Một đằng, bế mạc sự diễn hành của một hay những hiện tượng văn học của một thời đại;
- Một đằng khai mạc sự xuất hiện của những hiện tượng mới trở thành như một cái vốn, cái gia tài chung cho cả một thời đại vừa khai mạc;
- Đằng khác ghi nhận được cá tính của thời đại đó như là một xuất hiện đặc thù, khác thời đại mà nó bế mạc và khác luôn cả thời đại mà rồi đây sẽ bị thay thế.
Tuy vậy, trong lĩnh vực văn học có khi còn phải linh động hơn ở những địa hạt khác, khi ta chọn một niên đại làm điểm khởi cho một thời kỳ văn học thì ta nên hiểu nó một cách tương đối, có nghĩa như là những năm quanh quẩn đó, hoặc trước một tý hoặc sau một tý, chứ không hiểu một cách máy móc là chính ngày đó, tháng đó, năm đó.
Đằng khác, khi bảo bước sang một thời kỳ mới không phải bảo rằng mỗi thời kỳ mới phải là một đường ranh giới rạch đôi, xé rách nếp sống một phần nào vẫn liên tục của văn học. Như cuộc sống của một đoàn thể trước mỗi biến cố, đều có thể thay đổi, biến hóa nhưng chẳng khi nào đi từ cái không này qua cái không khác, cuộc sống văn học qua mỗi thời đại có mang những sắc thái đặc thù, nhưng cũng chẳng bao giờ hoàn toàn gián đoạn với dĩ vãng" (10) .
Có thể thấy, những nguyên tắc mềm dẻo do Thanh Lãng đề khởi rất phù hợp cho việc lựa chọn một cách linh động các chặng mốc văn học, và về căn bản không khác biệt nhiều lắm với những nguyên tắc mà chúng tôi đã gợi ý về tính chất ước lệ không tránh khỏi của việc phân kỳ văn học sử Việt Nam.
Gần đây, khi được đọc bộ Trung Hoa văn học thông sử 10 quyển do Sở nghiên cứu văn học Trung Quốc thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Trung Quốc biên soạn năm 1997, một thực tế càng làm cho tôi phải ngẫm nghĩ là các nhà văn học sử Trung Quốc thuộc thế hệ hôm nay chứ chưa xa xôi gì, đã chọn cách phân kỳ theo triều đại để tiếp cận một thời kỳ dài hơn 2000 năm của văn học Trung Hoa. Trong bộ sách này, các tác giả đã phân chia lịch sử văn học Trung Quốc từ thời Xuân thu Chiến quốc đến giữa thế kỷ XIX (1840) thành bảy giai đoạn :
1. Giai đoạn Tiên Tần, Tần, Hán;
2. Giai đoạn Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều;
3. Giai đoạn Đường, Ngũ đại;
4. Giai đoạn Tống, Liêu, Kim;
5. Giai đoạn Nguyên;
6. Giai đoạn Minh;
7. Giai đoạn Thanh (11) .
Sự kết nối các nhóm triều đại thành một giai đoạn trong sách nhiều khi cũng không nhất thiết là vì văn học giữa các triều đại đó đồng dạng với nhau, chẳng hạn như giai đoạn Tiên Tần, Tần, Hán thì giữa Tiên Tần (tản văn triết học) và Hán (phú), văn học khác nhau rất nhiều; hay như giai đoạn Tống, Liêu, Kim, cũng chẳng thể nói nền tảng văn chương của các triều này có mối tương quan mật thiết. Một bộ sách khác có tên Trung Quốc văn học sửcông bố năm 1999, ngoài bìa mang dòng chữ "giáo trình hướng tới thế kỷ XXI", của một nhóm Giáo sư đại học tiêu biểu mà Viên Hành Bái ở Đại học Bắc Kinh là người chủ biên, thì đã có những cách tân chừng mực trong việc phân kỳ. Họ chia lịch sử văn học Trung Quốc từ thời Tiên Tần đến năm 1919 thành ba thời kỳ gọi là "tam cổ", gồm bảy giai đoạn gọi là "thất đoạn" :
1. Thời kỳ Thượng cổ từ thế kỷ III trở về trước (gồm 2 giai đoạn : a. Giai đoạn trước Tần; b. Giai đoạn Tần Hán);
2. Thời kỳ Trung cổ từ thế kỷ III đến thế kỷ XVI (gồm 3 giai đoạn : a. Giai đoạn Ngụy Tấn đến hết niên hiệu Thiên Bảo nhà Đường; b. Giai đoạn giữa nhà Đường đến hết nhà Nam Tống; c. Giai đoạn đầu nhà Nguyên đến hết niên hiệu Chính Đức nhà Minh);
3. Thời kỳ Cận cổ từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX (gồm 2 giai đoạn : a. Giai đoạn mở đầu niên hiệu Gia Tĩnh nhà Minh đến chiến tranh Nha phiến 1840; b. Giai đoạn từ chiến tranh Nha phiến đến cuộc vận động Ngũ tứ 1919). Theo các tác giả, đây là một quan điểm mới mẻ nhằm chống lại cách phân kỳ bám sát từng triều đại, có giá trị "phản ánh tính giai đoạn của các tiến trình biến hóa phát triển của bản thân văn học". Tuy thế, họ vẫn không thể không "xem xét các tiến trình ấy trong quan hệ tham chiếu với các biến cố hệ trọng khác, như biến cải của chế độ xã hội, thay đổi của vương triều", trên thực tế là phối hợp các mốc triều đại với mốc thế kỷ để phân đoạn cho lịch sử văn học. Mặt khác nói gì thì nói, họ vẫn phải thừa nhận "cách phân kỳ theo triều đại trong các tập giáo trình và các công trình nghiên cứu trước mắt quả tình phù hợp với tập quán xưa nay, về thao tác lại tiện lợi, không những thế, sự đổi thay của các triều đại trong lịch sử cũng đã mang đến cho văn học những biến đổi thịnh suy đích thực, như Hán thịnh ở phú, Đường thịnh ở thơ, Tống thịnh ở từ, Nguyên thịnh ở khúc" (12) .
Điều đáng đặt dấu hỏi là khoa lịch sử văn học Trung Quốc đã có từ rất lâu và thành tựu phong phú hơn hẳn chúng ta, việc tiếp xúc của giới văn học sử gia Trung Quốc với khoa học phương Tây tất nhiên cũng thuận lợi hơn chúng ta rất nhiều. Vậy mà tại sao sau bao nhiêu năm tìm tòi, họ vẫn quay trở lại thừa nhận những cách phân kỳ có thể nói là cổ điển nhất? Phải chăng như tôi đã nói, phân chia lịch sử văn học rốt cuộc chỉ là quy ước, quy ước nào làm nổi bật được dòng chảy của lịch sử văn học và làm cho người đọc dễ tiếp nhận thì quy ước đó trở nên thông dụng ?
Nhưng thật ra, ngay đối với những nhà văn học sử Tây Âu đương đại, vấn đề phân kỳ văn học sử cũng được quan niệm khá thông thoáng, không mấy "tân kỳ" đến như ta tưởng. Nếu quan điểm của Lanson - chủ yếu là chia văn học theo thế kỷ - đã ngự trị bộä môn lịch sử văn học Pháp và châu Âu từ cuối thế kỷ XIX cho đến tận đầu những năm 1960 (13) , thì ở nửa cuối thế kỷ XX đã có thêm nhiều cách phân chia khác mà về mặt lựa chọn tiêu chí, có vẻ rộng rãi và ít gò bó hơn. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của M. H. Abrams, Gs. Trường đại học Cornell, in lần thứ 7 năm 1999, phát hành ở cả Mỹ, Anh, Canađa, Úc và Nhật, khi xác định "các thời kỳ của văn học Anh", đã đưa ra một đồ biểu phân kỳ "có giá trị phổ biến trong thực tế" (widespread pratice), gồm 10 thời kỳ lớn, trong đó sự khu biệt giữa các thời kỳ không chỉ căn cứ ở đặc trưng văn học mà nhiều khi còn dựa vào ngôn ngữ, vào triều đại lịch sử, vào biến cố chính trị xã hội :
1. Thời kỳ Anh ngữ cổ: 450-1066;
2. Thời kỳ Anh ngữ trung đại:1066-1500;
3. Thời kỳ Phục hưng hay là sơ kỳ Hiện đại (= Cận đại?) : 1500-1660, với bốn giai đoạn : a. Vương triều Elizabeth (1558-1603); b. Vương triều Jacob (tức vương triều James I, 1603-1625); c. Vương triều Carolie (tức vương triều Charles I, 1625-1649); d. Giai đoạn biến cách của Thanh giáo (do Nghị viện của Oliver Cromwell điều hành đất nước kể từ 1649, Charles I bị xử tử, đến khi phục hồi lại đế chế Stuar của Charles II,1660);
4. Thời kỳ Tân cổ điển : 1660-1785, với ba giai đoạn : a. Giai đoạn phục tích (khôi phục chế độ quân chủ) (1660-1700); b. Giai đoạn Auguste (mô phỏng đề tài và các hình thức của văn học La-mã thời đại Hoàng đế Augustus (27 TCN-14SCN), hay cũng gọi là giai đoạn Pope (Alexander Pope,nhà thơ tiêu biểu) ), 1700-1745; c. Giai đoạn đa cảm hay cũng gọi là giai đoạn Johnson (Samuel Johnson, nhà thơ tiêu biểu), 1745-1785;
5. Thời kỳ Lãng mạn : 1785-1830;
6. Thời kỳ Victoria (ba triều đại nữ hoàng Anh Victoria) : 1832-1901, với hai giai đoạn : a. Giai đoạn tiền Raphặl (1848-1860); b. Giai đoạn chủ nghĩa thẫm mỹ và suy đồi (1880-1901);
7. Thời kỳ Edward (vương triều King Edward VII) : 1901-1914;
8. Thời kỳ George (vương triều George V) : 1910-1936;
9. Thời kỳ Hiện đại :1914-1945;
10. Thời kỳ Hậu hiện đại : 1945 về sau (14) .
Cũng sách trên, khi nói về "các thời kỳ của văn học Mỹ" đã trích dẫn ý kiến của Cushing Strout, cho rằng "qua lịch sử chính trị của nước Mỹ có thể tìm thấy một hệ thống trật tự sáng rõ và có tính chất thuyết phục hơn là cái hệ thống trật tự được chỉ ra bởi những sự kiện đặc thù của văn học hay những phạm trù tri thức"(15) . Trên tinh thần đó, theo Abrams, các nhà văn học sử Mỹ đã đưa vào lịch sử văn học Mỹ các mốc lớn như thời kỳ Chiến tranh cách mạng (1775-1781), thời kỳ Nội chiến (1861-1865), thời kỳ Thế chiến I(1914-1918), thời kỳ Thế chiến II (1939-1945), còn thời kỳ từ 1775 trở về trước thì được gọi là thời kỳ Thuộc địa (đế quốc Anh thống trị). Ngoài ra, văn học của người da đen và trào lưu văn học nữ giới cũng có địa vị đáng kể, không thể gạt ra ngoài các chuẩn mốc phân kỳ(16) . Xem thế đủ hiểu, đối với việc phân kỳ văn học sử, từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây hầu như chưa có ai vận dụng thuần nhất một tiêu chí, và về phương pháp luận, cũng chưa ai bỏ qua nguyên tắc ước lệ như một sợi chỉ đỏ, không cần bàn bạc mà trong thâm tâm ai cũng tuân thủ.
THỜI KỲ VĂN HỌC CỔ : VIỆC ĐỊNH DANH VÀ PHÂN CHIA GIAI ĐOẠN
1. Tôi xin nêu lên một luận điểm thứ hai : về cách mệnh danh các thời kỳ khác nhau trong văn học sử Việt Nam. Trong cuộc thảo luận khoa học về phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam vào năm 1985 do Khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp Hà Nội chủ trì, có bốn ý kiến cũng là bốn tham luận chính trong Hội thảo, sau đó đã được đăng trên Tạp chí văn học(đã dẫn), trong đó, trừ ý kiến của Gs. Đỗ Đức Hiểu chủ trương phân chia văn học sử Việt Nam thành hai thời đại lớn - thời đại từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX và thời đại từ đầu thế kỷ XX trở về sau; mỗi thời đại được đánh dấu bằng một phong cách lớn : thời đại thứ nhất là phong cách được đặc trưng bởi các sáng tác tiêu biểu trong chặng đường nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX và thời đại thứ hai là phong cách mang đậm dấu ấn sáng tác của Hồ Chí Minh - còn lại ba chúng tôi, Nguyễn Lộc, Trần Đình Hượu và tôi, chúng tôi đều chia văn học thành ba thời kỳ : thời kỳ văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, thời kỳ văn học từ đầu thế kỷ XX đến 1945 và thời kỳ văn học từ 1945 đến nay. Về cách gọi tên, thời kỳ văn học từ đầu thế kỷ XX đến 1945 chúng tôi đều nhất trí gọi là thời Cận đại. Thời kỳ văn học từ 1945 đến nay, Nguyễn Lộc và Trần Đình Hượu gọi là thời Hiện đại, còn tôi gọi là thời Hiện đại và Đương đại. Chỉ có thời kỳ văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX thì cách gọi thật sự có khác nhau. Nguyễn Lộc gọi là thời kỳ văn học Truyền thống. Trần Đình Hượu không gọi tên nhưng có nhắc đến hai từ Cổ đại và Trung cổ và sau này, trong một bài viết khác, ông lại trở lại cách gọi "văn học Truyền thống" của nguyễn Lộc, đồng thời nhiều lần nhắc đến cụm từ "văn học Cổ điển"(17) . Riêng mình tôi, đã gọi đây là văn học Trung đại. Mỗi một cách gọi tên ít nhiều đều xuất phát từ một sự suy nghĩ có cân nhắc chứ không phải cảm tính. Nguyễn Lộc nói : "Chúng tôi gọi thời kỳ thứ nhất trong văn học dân tộc là thời kỳ văn học truyền thốngvà các thời kỳ sau là cận đại, hiện đại không phải tùy tiện, mà với dụng ý để mọi người thấy thời kỳ thứ nhất văn học dân tộc chưa đi vào quỹ đạo chung của văn học thế giới, mà vẫn có tính cách văn học khu vực, văn học Đông Á, Đông nam Á. Nếu đối lập "truyền thống" với "cách tân" thì thời kỳ thứ nhất trong văn học dân tộc có thể gọi là "thời đại văn học truyền thống" và hai thời kỳ cận, hiện đại tiếp theo có thể gọi là "thời đại mới" trong văn học dân tộc" (Bđd, tr. 36). Tôi thì chỉ nói vắn tắt :"Những khái niệm Trung đại, Cận đại, Hiện đại dùng ở đây được xem như là tương ứng với ba thời kỳ lớn trong lịch sử : thời phong kiến, thời cách mạng tư sản, và thời cách mạng vô sản" (Bđd, tr. 68). Về sau, cách gọi "thời Trung đại" đã được nhiều người dùng, có người còn chủ động thay đổi cách gọi cũ ("văn học Cổ"õ, "văn học Cổ điển"...) khi sách hay giáo trình của họ được tái bản. Và gần đây, Trần Đình Sử cũng thống nhất sử dụng "thời kỳ văn học Trung đại" như một khái niệm mặc nhiên trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại.
Nhưng khoảng mấy năm lại đây, bản thân tôi lại tự thấy không yên tâm về thuật ngữ mà mình đã chọn. Bởi vì cái gọi là Trung đại là gì? Hoàn toàn không có gì khác ngoài cái hàm nghĩa đó là thời kỳ Trung cổ. Đó chỉ là dịch lại một cách vắn tắt thuật ngữ Période de Moyen Âge hay Période Médiéval trong lịch sử châu Âu. Song chuyển một thuật ngữ của lịch sử châu Âu sang lịch sử văn học Việt Nam và rộng hơn là lịch sử văn học phương Đông liệu có khiên cưỡng hay không khi ta biết hai phạm trù này không ăn nhập gì với nhau? Thời Trung cổ châu Âu là một thời kỳ chưa hình thành dân tộc, được đánh dấu bằng nền chính trị chia nhỏ thành các tiểu vương quốc và một xã hội nông nghiệp phân chia thành hai giai cấp quý tộc và nông dân. Đó là giai đoạn lịch sử "đêm trường", là sự thiếu vắng lý tính và khoa học, là sự ngự trị của Nhà thờ và lãnh chúa phong kiến, là "một nền văn minh, trong giới hạn gốc gác của nó, được nhào luyện kể từ những yếu tố mà đại đa số là có tính cổ điển và tính giecmanh hay là tính Cơ đốc giáo"(18) . Tôi chưa được đọc công trình Lịch sử văn học châu Âu của Dương Châu Hàn, Ngô Đạt Nguyên, Triệu La Nhuy viết năm 1964 (19) mà Gs. Trần Đình Sử đã viện dẫn để nói rằng họ đã mở rộng thời Trung đại đến tận thế kỷ XVII tức là khi chế độ phong kiến châu Âu đã thật sự suy tàn, nhưng trong các bộ sách tôi đã đọc như Encyclopédie Française 1973, Encyclopedia Universalis 1990-1995, và ngay cả Petit Larousse Ilustrée 1993, thì giới hạn thời Trung cổ vẫn chỉ là từ năm 476 khi đế quốc La-mã sụp đổ, cho đến khi Mahomet II (tức Mehmet II, 1429-1481), vua Thổ-nhĩ-kỳ đánh chiếm Constantinople vào năm 1453. Trung cổ hiểu theo nghĩa này chính là gói gọn trong thời kỳ độc tôn của Giáo hội Thiên chúa giáo chứ không phải bao quát toàn bộ lịch sử chế độ phong kiến. Về phương diện văn học, tiếp theo thời đại Trung cổ sẽ là thời đại Phục hưng ở nửa cuối thế kỷ XV, thời đại Baroque ở thế kỷ XVI-XVII, thời đại Cổ điển ở thế kỷ XVII, thời đại Tiền lãng mạn ở nửa đầu thế kỷ XVIII. Những thời đại này đều nằm trong lòng của chế độ phong kiến nhưng so với thời đại Trung cổ thì đã khác một trời một vực.
Riêng ở Việt Nam cho đến nay, cách dùng khái niệm Trung đại vẫn là một ước lệ không có tính xác định về mặt nội hàm. Nói rằng tính chất "trung đại" bắt nguồn từ sự tỏa chiết của ý thức hệ Nho giáo đối với đời sống tư tưởng, tình cảm của toàn xã hội nhưng thật ra, trong 10 thế kỷ tồn tại của chế độ phong kiến tự chủ, đâu có phải thời nào Nho giáo cũng được suy tôn lên địa vị "giáo chủ" về mặt tinh thần. Là một nước nhỏ nằm trên đường trục giữa Trung Hoa và Ấn Độ, cơ chế sinh tồn của dân tộc chúng ta vẫn phải là sự dung hợp,cộng tồn của nhiều luồng tư tưởng. Từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV, "tam giáo đồng nguyên" là cách ứng xử thích hợp nhất trtước thế động tất yếu của lịch sử. Đến thế kỷ XV, sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, nhất là sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi hoàng đế, Nho giáo cũng bắt đầu lên ngôi, giữ vị thế độc tôn, nhưng cũng chỉ độc tôn được dến hết thế kỷ XVII là rơi vào triền miên khủng hoảng. Từ đó đến khi chế độ phong kiến chấm dứt, các tập đoàn phong kiến nhiều lần cố vực lại kỷ cương bằng Nho giáo, sử dụng Tống Nho như một công cụ thống trị độc nhất về tư tưởng. Tuy nhiên, trong mạch ngầm của đời sống, các hệ tư tưởng phi Nho như Phật, Lão Trang, Đạo giáo, các tôn giáo tín ngưỡng bản địa, và các tôn giáo phương Tây mới du nhập... vẫn cứ có đất sống mạnh mẽ, nó làm nên một thứ khí hậu tinh thần pha trộn nhưng lại dễ thở, có tác dụng hóa giải sức ép độc đoán của Nho giáo từ bên trên.
Như vậy, soi vào văn học, khi chúng ta mệnh danh cho cả 10 thế kỷ văn học cổ Việt Nam bằng mấy chữ thời Trung đại, phải chăng vô hình trung chúng ta đã đem một thuật ngữ châu Âu vốn mang hàm nghĩa rất hẹp - là một thời kỳ thiếu vắng những giá trị văn học đích thực - úp chụp lên cả một chặng đường rất dài với nhiều thành tựu rực rỡ của văn học chúng ta, trong đó chắc chắn đã có những tư trào phục hưng quan trọng - dĩ nhiên phục hưng hiểu theo nghĩa không máy móc nô lệ khái niệm thời đại Phục hưng phương Tây ở thế kỷ XV. Và điều này đã được nhắc đến trong cuốn sách của N. I. Niculin Văn học Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ XIXnăm 1977 (20) . Ngẫm nghĩ lại tôi mới hiểu vì sao Nguyễn Lộc dùng khái niệm "thời kỳ văn học Truyền thống" và Trần Đình Hượu thì một mực gọi là "văn học Cổ điển" (nên nhớ, trước Trần Đình Hượu 20 năm, trong bộ sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam Thanh Lãng cũng đã sử dụng cụm từ "thời đại văn học Cổ điển" một cách có chủ kiến để gọi văn học Việt Nam từ thế kỷ XII đến giữa thế kỷ XIX) (21) . Và tôi cũng có linh cảm rằng Gs. Đặng Thai Mai đã có lý khi gọi tên bộ phận nghiên cứu của Viện Văn học mà hiện tôi đang phụ trách là "văn học Cổ Cận đại", kể từ 1959. Mấy chữ "văn học Truyền thống", "văn học Cổ điển", "văn học Cổ" hay "văn học Cổ Cận đại" không cho ta cái ám ảnh trung cổ như cách gọi văn học Trung đại.
Gần đây, cũng nhân đọc hai bộ sách Trung Hoa văn học thông sưû, và Trung Quốc văn học sử, tôi bỗng bỡ ngỡ khi các nhà văn học sử Trung Quốc vẫn "cố thủ" ở hai chữ Cổ đại mà họ dùng từ rất xưa, dành cho quãng đường văn học rất dài từ Tiên Tần đến 1840 hoặc đến tận 1919. Khái niệm "cổ đại" mà họ dùng bao gồm từ xã hội nguyên thủy, xã hội nô lệ, cho đến xã hội phong kiến (hoặc có đổi mới thuật ngữ chút ít là Thượng cổ, Trung cổ và Cận cổ), nhưng về mặt nội dung, lại không phải là một thời kỳ "vô hồn", trái lại, đây là "bộ phận tổ thành trọng yếu trong di sản văn hóa [Trung Quốc], có thể nói là một báu vật đáng tự hào nhất của văn minh Trung Hoa. Bởi vì, thông qua văn học Cổ đại, chúng ta không những có thể trải nghiệm những bước biến đổi thịnh suy hưng vong của nước cổ 5.000 năm, có thể sờ mó, tiếp xúc với cái linh hồn phong phú mà sâu thẳm của cả một dân tộc vĩ đại, mà hơn nữa, đứng về góc độ hưởng thụ tinh thần và thưởng thức nghệ thuật mà nói thì còn giống như được đi vào một tòa cung điện mỹ lệ xây nên bằng ngôn ngữ văn tự, được dạo qua một vùng kỳ hoa dị thảo, đâu đâu cũng là vườn tược mênh mông um tùm quanh quất, từ đấy mà cảm nhận được cái nguy nga cao tột của nó, lại cũng hiểu dược sự rạng rỡ hưng thịnh và vẻ đẹp nuột nà của nó" (22) . Cái nghĩa "cổ đại" mà các học giả Trung Quốc hiện nay dùng cho thời kỳ văn học cổ của họ, chưa bao giờ có ý vị ảm đạm như cách gọi văn học Trung cổ trong văn học châu Âu.
Nguyễn Huệ Chi
Một vài vấn đề phân kỳ lịch sử Văn hóa nhìn từ điểm đầu của thế kỷ 21
Phân kỳ lịch sử văn học bao giờ cũng là một vấn đề có sức hấp dẫn đối với người viết văn học sử, bởi đó là cái chìa khóa then chốt để có thể nhận diện văn học như sự nối tiếp của nhiều tiến trình. Ở điểm bắt đầu của thế kỷ XXI này, chắc có lẽ người nghiên cứu văn học nào cũng muốn nhìn lại, muốn có một sự hình dung tổng quát về các bước đường đã qua của văn học Việt Nam trong vòng 11 thế kỷ, chí ít là trong một thế kỷ vừa mới kết thúc, để dự liệu bước đi của nó trong thế kỷ đang tới.
Bản thân người viết bài này tuy đã ba lần bàn đến phân kỳ lịch sử văn học dân tộc vào các năm 1985(1) , đầu 1990(2) và cuối 1990(3) nhưng giờ đây vẫn cứ muốn xem xét lại chỗ sai chỗ đúng, chỗ khả thủ và chỗ bất cập trong nhận thức của chính mình, trên vấn đề quan trọng này. Tuy nhiên, ngẫm nghĩ kỹ thì đây là một vấn đề không đơn giản. Bởi lẽ, trong 15 năm qua đã diễn ra những sự kiện đảo lộn có tầm thế giới, có khả năng làm thay đổi quan niệm của chúng ta về cấu trúc lịch sử, trong đó có cấu trúc của lịch sử văn học. Nếu nói thật khoa học thì yêu cầu đặt ra là phải nhìn lại cái đã diễn ra như nó có bằng một hệ quy chiếu mới thay thế cho hệ quy chiếu cũ đã mất sức thuyết phục, và do đó, nhiều điều phải nhìn lại tận gốc và nhìn lại từ đầu. Vì thế, bài viết này chưa có tham vọng giải quyết tất cả mọi vấn đề của phân kỳ lịch sử văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X cho đến tận hôm nay. Chúng tôi chỉ xin nêu lên mấy gợi ý về một số mốc phân đoạn văn học viết Việt Nam qua các thời kỳ, và tất nhiên là còn rất sơ lược.
XÁC ĐỊNH MỘT VÀI NGUYÊN TẮC PHÂN KỲ
Trước hết xin trở lại với một vài nguyên tắc chung về việc phân kỳ lịch sử văn học mà tôi đã từng đề xuất. Cần nói rằng, quan tâm đến vấn đề này về mặt lý thuyết, không phải chỉ có mình tôi mà còn có các nhà nghiên cứu khác. Ngoài những học giả đi trước, cùng một thời điểm với tôi còn có các Gs. Nguyễn Lộc (4) , Trần Đình Hượu (5) , Đỗ Đức Hiểu (6) , và gần đây hơn cả là Gs. Trần Đình Sử (7). Trong chừng mực nào đó, khi trình bày vấn đề, tôi sẽ kết hợp đề cập đến ý kiến của các ông.
Khác với nhiều ý kiến muốn coi phân kỳ văn học hoàn toàn trùng hợp với việc tìm tòi các dạng thức biểu hiện của những quy luật đặc thù đã chi phối sự vận động của mọi tiến trình văn học sử, tôi cho rằng phân kỳ chủ yếu là đi tìm những quy ước thuận tiện nhất, nhằm trình bày một cách sáng tỏ các chặng đường lớn nhỏ của lịch sử văn học Việt Nam. Bởi lẽ, theo tôi, tìm cho được cái quy luật của chính văn chương đã chi phối các hiện tượng, các trào lưu... diễn ra trong một khoảng thời gian nào đó, để ấn định rằng đó đích thực là một giai đoạn hoặc một thời kỳ văn học có tính độc lập tương đối, là việc lý tưởng nhưng không kém khó khăn. Một giai đoạn văn học bao giờ cũng được hình thành do nhiều yếu tố, có yếu tố nội tại và có yếu tố bên ngoài, có cả những yếu tố ngẫu nhiên, mà nhìn cho ra cái nào là bản chất nhất, đâu phải dễ dàng. Có khi giữa một chặng đường này và một chặng đường kế tiếp, diện mạo và chiều hướng của văn học có vẻ vẫn giống nhau, trách nhiệm xã hội và yêu cầu mỹ học đối với văn chương vẫn chưa thay đổi, nhưng sâu bên trong, do tác động thầm kín của lịch sử, chuyển động của sáng tác đã không còn như cũ. Bảo rằng đấy vẫn chỉ là một giai đoạn thôi thì đành là không ổn, song để phân suất cho được đâu là phẩm chất cốt lõi làm nên bước ngoặt mới, nếu chúng ta thực sự cầu thị chứ không gò gẫm khiên cưỡng, chỉ cốt nói lấy được, hẳn chưa chắc đã dám nói quyết đấy là gì.
Mặt nữa, văn học thường bao giờ cũng diễn biến theo quy luật tiệm tiến, thảng hoặc lắm mới chứng kiến một bước tiến nhảy vọt, một đột biến khác thường. Và giữa quá trình sau với quá trình trước bao giờ cũng có sự giao thoa, xen kẽ, chứ ít khi đứt đoạn. Đem một cái mốc cắm vào cho lịch sử văn học, vô hình trung ta đã tạo ra một mặt cắt trái với tự nhiên, làm cho văn học không còn phản ánh đúng sự vận động tự thân của nó. Vì thế, dựa vào ý kiến của Karl Marx trong "Lời nói đầu" bộ Tư bản phân biệt lôgic nghiên cứu và lôgic trình bày, rằng lôgic trình bày cần phản ánh lôgic nghiên cứu nhưng không nhất thiết theo sát lôgic nghiên cứu, tôi cho rằng phân kỳ lịch sử văn học là thuộc về lôgic trình bày. Nó là quy ước nhận diện và trình bày lịch sử văn học. Tất nhiên, đã là quy ước thì không ai lại nghĩ rằng chỉ có một cách trình bày nào đấy là tuyệt đối đúng. Nếu như lôgic nghiên cứu giúp ta nhận thức bản chất của sự vận động thì lôgic trình bày giúp ta miêu tả bản chất ấy bằng các hình thái vận động tương ứng, qua đó người đọc có thể tiếp nhận đối tượng một cách nhất quán, phù hợp với nhận thức của mình. Tùy theo tính chất từng loại quy ước mà lôgic trình bày có thể rất khác nhau, miễn sao quy ước - từ bên ngoài đối tượng - phải nhập thân vào đối tượng và soi rõ trình thức và bước đi của đối tượng. Mỗi bộ văn học sử tuân thủ một quy ước trình bày riêng, cũng tức là xác định phương pháp loại biệt của bộ sử đó, trên cơ sở một đối tượng chung là lịch sử văn học. Xét trên phương diện này, quy ước trình bày nào cũng có thể phát huy được ưu điểm nếu được sử dụng đúng đắn, trong đó không loại trừ cách trình bày văn học theo thế kỷ hay theo triều đại mà các nhà viết văn học sử trước Cách mạng tháng Tám đã từng làm, vốn cũng khá thích hợp với số đông bạn đọc chúng ta quen tư duy theo thời gian, theo thập kỷ và thế kỷ, hoặc quen nhận diện quá khứ theo tên gọi của các vương triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn.
Ý kiến trên đây của tôi nêu ra cách nay đã 15 năm, năm 1990 được bổ sung và viết lại để in vào cuốn Các vấn đề của khoa học văn học do PGs. Trương Đăng Dung chủ biên. Không ngờ trong bộ sách này cũng có một bài viết của Klanixoi Tiborơ bàn về khái niệm thời kỳ văn học; tác giả người Hung đó cũng tóm lược hai chủ trương phân kỳ đối lập nhau trong văn học sử châu Âu gần đúng với tình hình giới nghiên cứu nước ta cùng thời điểm trên (8) . Cần nói rằng ở miền Nam trước 1975, học giả Thanh Lãng đã từng có một quan niệm phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam tương đối thấu đáo. Trong sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam công bố năm 1967, sau khi điểm lại cách phân chia thời kỳ văn học của các bộ văn học sử đã xuất hiện cho đến đầu những năm 60 (kể cả các bộ văn học sử của miền Bắc), Thanh Lãng đã đưa ra một nguyên tắc then chốt làm tiêu chí phân kỳ cho mình : "Chúng ta không võ đoán, đề cao hay chối bỏ một tiêu chuẩn nào trong các tiêu chuẩn mà các nhà đi trước áp dụng như tiêu chuẩn triều đại hay thế kỷ, nhưng chúng ta chỉ chấp nhận là tiêu chuẩn khi nào quả thực cái tiêu chuẩn ấy có bế mạc hay khai mạc một cái gì gọi là cái vốn chung cho một thời đại và riêng biệt cho chính thời đại ấy" (9) ; "Nói tóm lại, tiêu chuẩn của chúng ta theo để chia thời kỳ cho văn học là lựa chọn một niên lịch nào đó (có thể là một niên lịch chính trị, lịch sử, văn học, hay thế kỷ) đã xô đẩy những biến cố văn học - tôi nhắc đến bốn chữ biến cố văn học - khiến cho với những biến cố ấy, niên lịch ấy :
- Một đằng, bế mạc sự diễn hành của một hay những hiện tượng văn học của một thời đại;
- Một đằng khai mạc sự xuất hiện của những hiện tượng mới trở thành như một cái vốn, cái gia tài chung cho cả một thời đại vừa khai mạc;
- Đằng khác ghi nhận được cá tính của thời đại đó như là một xuất hiện đặc thù, khác thời đại mà nó bế mạc và khác luôn cả thời đại mà rồi đây sẽ bị thay thế.
Tuy vậy, trong lĩnh vực văn học có khi còn phải linh động hơn ở những địa hạt khác, khi ta chọn một niên đại làm điểm khởi cho một thời kỳ văn học thì ta nên hiểu nó một cách tương đối, có nghĩa như là những năm quanh quẩn đó, hoặc trước một tý hoặc sau một tý, chứ không hiểu một cách máy móc là chính ngày đó, tháng đó, năm đó.
Đằng khác, khi bảo bước sang một thời kỳ mới không phải bảo rằng mỗi thời kỳ mới phải là một đường ranh giới rạch đôi, xé rách nếp sống một phần nào vẫn liên tục của văn học. Như cuộc sống của một đoàn thể trước mỗi biến cố, đều có thể thay đổi, biến hóa nhưng chẳng khi nào đi từ cái không này qua cái không khác, cuộc sống văn học qua mỗi thời đại có mang những sắc thái đặc thù, nhưng cũng chẳng bao giờ hoàn toàn gián đoạn với dĩ vãng" (10) .
Có thể thấy, những nguyên tắc mềm dẻo do Thanh Lãng đề khởi rất phù hợp cho việc lựa chọn một cách linh động các chặng mốc văn học, và về căn bản không khác biệt nhiều lắm với những nguyên tắc mà chúng tôi đã gợi ý về tính chất ước lệ không tránh khỏi của việc phân kỳ văn học sử Việt Nam.
Gần đây, khi được đọc bộ Trung Hoa văn học thông sử 10 quyển do Sở nghiên cứu văn học Trung Quốc thuộc Viện hàn lâm khoa học xã hội Trung Quốc biên soạn năm 1997, một thực tế càng làm cho tôi phải ngẫm nghĩ là các nhà văn học sử Trung Quốc thuộc thế hệ hôm nay chứ chưa xa xôi gì, đã chọn cách phân kỳ theo triều đại để tiếp cận một thời kỳ dài hơn 2000 năm của văn học Trung Hoa. Trong bộ sách này, các tác giả đã phân chia lịch sử văn học Trung Quốc từ thời Xuân thu Chiến quốc đến giữa thế kỷ XIX (1840) thành bảy giai đoạn :
1. Giai đoạn Tiên Tần, Tần, Hán;
2. Giai đoạn Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều;
3. Giai đoạn Đường, Ngũ đại;
4. Giai đoạn Tống, Liêu, Kim;
5. Giai đoạn Nguyên;
6. Giai đoạn Minh;
7. Giai đoạn Thanh (11) .
Sự kết nối các nhóm triều đại thành một giai đoạn trong sách nhiều khi cũng không nhất thiết là vì văn học giữa các triều đại đó đồng dạng với nhau, chẳng hạn như giai đoạn Tiên Tần, Tần, Hán thì giữa Tiên Tần (tản văn triết học) và Hán (phú), văn học khác nhau rất nhiều; hay như giai đoạn Tống, Liêu, Kim, cũng chẳng thể nói nền tảng văn chương của các triều này có mối tương quan mật thiết. Một bộ sách khác có tên Trung Quốc văn học sửcông bố năm 1999, ngoài bìa mang dòng chữ "giáo trình hướng tới thế kỷ XXI", của một nhóm Giáo sư đại học tiêu biểu mà Viên Hành Bái ở Đại học Bắc Kinh là người chủ biên, thì đã có những cách tân chừng mực trong việc phân kỳ. Họ chia lịch sử văn học Trung Quốc từ thời Tiên Tần đến năm 1919 thành ba thời kỳ gọi là "tam cổ", gồm bảy giai đoạn gọi là "thất đoạn" :
1. Thời kỳ Thượng cổ từ thế kỷ III trở về trước (gồm 2 giai đoạn : a. Giai đoạn trước Tần; b. Giai đoạn Tần Hán);
2. Thời kỳ Trung cổ từ thế kỷ III đến thế kỷ XVI (gồm 3 giai đoạn : a. Giai đoạn Ngụy Tấn đến hết niên hiệu Thiên Bảo nhà Đường; b. Giai đoạn giữa nhà Đường đến hết nhà Nam Tống; c. Giai đoạn đầu nhà Nguyên đến hết niên hiệu Chính Đức nhà Minh);
3. Thời kỳ Cận cổ từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX (gồm 2 giai đoạn : a. Giai đoạn mở đầu niên hiệu Gia Tĩnh nhà Minh đến chiến tranh Nha phiến 1840; b. Giai đoạn từ chiến tranh Nha phiến đến cuộc vận động Ngũ tứ 1919). Theo các tác giả, đây là một quan điểm mới mẻ nhằm chống lại cách phân kỳ bám sát từng triều đại, có giá trị "phản ánh tính giai đoạn của các tiến trình biến hóa phát triển của bản thân văn học". Tuy thế, họ vẫn không thể không "xem xét các tiến trình ấy trong quan hệ tham chiếu với các biến cố hệ trọng khác, như biến cải của chế độ xã hội, thay đổi của vương triều", trên thực tế là phối hợp các mốc triều đại với mốc thế kỷ để phân đoạn cho lịch sử văn học. Mặt khác nói gì thì nói, họ vẫn phải thừa nhận "cách phân kỳ theo triều đại trong các tập giáo trình và các công trình nghiên cứu trước mắt quả tình phù hợp với tập quán xưa nay, về thao tác lại tiện lợi, không những thế, sự đổi thay của các triều đại trong lịch sử cũng đã mang đến cho văn học những biến đổi thịnh suy đích thực, như Hán thịnh ở phú, Đường thịnh ở thơ, Tống thịnh ở từ, Nguyên thịnh ở khúc" (12) .
Điều đáng đặt dấu hỏi là khoa lịch sử văn học Trung Quốc đã có từ rất lâu và thành tựu phong phú hơn hẳn chúng ta, việc tiếp xúc của giới văn học sử gia Trung Quốc với khoa học phương Tây tất nhiên cũng thuận lợi hơn chúng ta rất nhiều. Vậy mà tại sao sau bao nhiêu năm tìm tòi, họ vẫn quay trở lại thừa nhận những cách phân kỳ có thể nói là cổ điển nhất? Phải chăng như tôi đã nói, phân chia lịch sử văn học rốt cuộc chỉ là quy ước, quy ước nào làm nổi bật được dòng chảy của lịch sử văn học và làm cho người đọc dễ tiếp nhận thì quy ước đó trở nên thông dụng ?
Nhưng thật ra, ngay đối với những nhà văn học sử Tây Âu đương đại, vấn đề phân kỳ văn học sử cũng được quan niệm khá thông thoáng, không mấy "tân kỳ" đến như ta tưởng. Nếu quan điểm của Lanson - chủ yếu là chia văn học theo thế kỷ - đã ngự trị bộä môn lịch sử văn học Pháp và châu Âu từ cuối thế kỷ XIX cho đến tận đầu những năm 1960 (13) , thì ở nửa cuối thế kỷ XX đã có thêm nhiều cách phân chia khác mà về mặt lựa chọn tiêu chí, có vẻ rộng rãi và ít gò bó hơn. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của M. H. Abrams, Gs. Trường đại học Cornell, in lần thứ 7 năm 1999, phát hành ở cả Mỹ, Anh, Canađa, Úc và Nhật, khi xác định "các thời kỳ của văn học Anh", đã đưa ra một đồ biểu phân kỳ "có giá trị phổ biến trong thực tế" (widespread pratice), gồm 10 thời kỳ lớn, trong đó sự khu biệt giữa các thời kỳ không chỉ căn cứ ở đặc trưng văn học mà nhiều khi còn dựa vào ngôn ngữ, vào triều đại lịch sử, vào biến cố chính trị xã hội :
1. Thời kỳ Anh ngữ cổ: 450-1066;
2. Thời kỳ Anh ngữ trung đại:1066-1500;
3. Thời kỳ Phục hưng hay là sơ kỳ Hiện đại (= Cận đại?) : 1500-1660, với bốn giai đoạn : a. Vương triều Elizabeth (1558-1603); b. Vương triều Jacob (tức vương triều James I, 1603-1625); c. Vương triều Carolie (tức vương triều Charles I, 1625-1649); d. Giai đoạn biến cách của Thanh giáo (do Nghị viện của Oliver Cromwell điều hành đất nước kể từ 1649, Charles I bị xử tử, đến khi phục hồi lại đế chế Stuar của Charles II,1660);
4. Thời kỳ Tân cổ điển : 1660-1785, với ba giai đoạn : a. Giai đoạn phục tích (khôi phục chế độ quân chủ) (1660-1700); b. Giai đoạn Auguste (mô phỏng đề tài và các hình thức của văn học La-mã thời đại Hoàng đế Augustus (27 TCN-14SCN), hay cũng gọi là giai đoạn Pope (Alexander Pope,nhà thơ tiêu biểu) ), 1700-1745; c. Giai đoạn đa cảm hay cũng gọi là giai đoạn Johnson (Samuel Johnson, nhà thơ tiêu biểu), 1745-1785;
5. Thời kỳ Lãng mạn : 1785-1830;
6. Thời kỳ Victoria (ba triều đại nữ hoàng Anh Victoria) : 1832-1901, với hai giai đoạn : a. Giai đoạn tiền Raphặl (1848-1860); b. Giai đoạn chủ nghĩa thẫm mỹ và suy đồi (1880-1901);
7. Thời kỳ Edward (vương triều King Edward VII) : 1901-1914;
8. Thời kỳ George (vương triều George V) : 1910-1936;
9. Thời kỳ Hiện đại :1914-1945;
10. Thời kỳ Hậu hiện đại : 1945 về sau (14) .
Cũng sách trên, khi nói về "các thời kỳ của văn học Mỹ" đã trích dẫn ý kiến của Cushing Strout, cho rằng "qua lịch sử chính trị của nước Mỹ có thể tìm thấy một hệ thống trật tự sáng rõ và có tính chất thuyết phục hơn là cái hệ thống trật tự được chỉ ra bởi những sự kiện đặc thù của văn học hay những phạm trù tri thức"(15) . Trên tinh thần đó, theo Abrams, các nhà văn học sử Mỹ đã đưa vào lịch sử văn học Mỹ các mốc lớn như thời kỳ Chiến tranh cách mạng (1775-1781), thời kỳ Nội chiến (1861-1865), thời kỳ Thế chiến I(1914-1918), thời kỳ Thế chiến II (1939-1945), còn thời kỳ từ 1775 trở về trước thì được gọi là thời kỳ Thuộc địa (đế quốc Anh thống trị). Ngoài ra, văn học của người da đen và trào lưu văn học nữ giới cũng có địa vị đáng kể, không thể gạt ra ngoài các chuẩn mốc phân kỳ(16) . Xem thế đủ hiểu, đối với việc phân kỳ văn học sử, từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây hầu như chưa có ai vận dụng thuần nhất một tiêu chí, và về phương pháp luận, cũng chưa ai bỏ qua nguyên tắc ước lệ như một sợi chỉ đỏ, không cần bàn bạc mà trong thâm tâm ai cũng tuân thủ.
THỜI KỲ VĂN HỌC CỔ : VIỆC ĐỊNH DANH VÀ PHÂN CHIA GIAI ĐOẠN
1. Tôi xin nêu lên một luận điểm thứ hai : về cách mệnh danh các thời kỳ khác nhau trong văn học sử Việt Nam. Trong cuộc thảo luận khoa học về phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam vào năm 1985 do Khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp Hà Nội chủ trì, có bốn ý kiến cũng là bốn tham luận chính trong Hội thảo, sau đó đã được đăng trên Tạp chí văn học(đã dẫn), trong đó, trừ ý kiến của Gs. Đỗ Đức Hiểu chủ trương phân chia văn học sử Việt Nam thành hai thời đại lớn - thời đại từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX và thời đại từ đầu thế kỷ XX trở về sau; mỗi thời đại được đánh dấu bằng một phong cách lớn : thời đại thứ nhất là phong cách được đặc trưng bởi các sáng tác tiêu biểu trong chặng đường nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX và thời đại thứ hai là phong cách mang đậm dấu ấn sáng tác của Hồ Chí Minh - còn lại ba chúng tôi, Nguyễn Lộc, Trần Đình Hượu và tôi, chúng tôi đều chia văn học thành ba thời kỳ : thời kỳ văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, thời kỳ văn học từ đầu thế kỷ XX đến 1945 và thời kỳ văn học từ 1945 đến nay. Về cách gọi tên, thời kỳ văn học từ đầu thế kỷ XX đến 1945 chúng tôi đều nhất trí gọi là thời Cận đại. Thời kỳ văn học từ 1945 đến nay, Nguyễn Lộc và Trần Đình Hượu gọi là thời Hiện đại, còn tôi gọi là thời Hiện đại và Đương đại. Chỉ có thời kỳ văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX thì cách gọi thật sự có khác nhau. Nguyễn Lộc gọi là thời kỳ văn học Truyền thống. Trần Đình Hượu không gọi tên nhưng có nhắc đến hai từ Cổ đại và Trung cổ và sau này, trong một bài viết khác, ông lại trở lại cách gọi "văn học Truyền thống" của nguyễn Lộc, đồng thời nhiều lần nhắc đến cụm từ "văn học Cổ điển"(17) . Riêng mình tôi, đã gọi đây là văn học Trung đại. Mỗi một cách gọi tên ít nhiều đều xuất phát từ một sự suy nghĩ có cân nhắc chứ không phải cảm tính. Nguyễn Lộc nói : "Chúng tôi gọi thời kỳ thứ nhất trong văn học dân tộc là thời kỳ văn học truyền thốngvà các thời kỳ sau là cận đại, hiện đại không phải tùy tiện, mà với dụng ý để mọi người thấy thời kỳ thứ nhất văn học dân tộc chưa đi vào quỹ đạo chung của văn học thế giới, mà vẫn có tính cách văn học khu vực, văn học Đông Á, Đông nam Á. Nếu đối lập "truyền thống" với "cách tân" thì thời kỳ thứ nhất trong văn học dân tộc có thể gọi là "thời đại văn học truyền thống" và hai thời kỳ cận, hiện đại tiếp theo có thể gọi là "thời đại mới" trong văn học dân tộc" (Bđd, tr. 36). Tôi thì chỉ nói vắn tắt :"Những khái niệm Trung đại, Cận đại, Hiện đại dùng ở đây được xem như là tương ứng với ba thời kỳ lớn trong lịch sử : thời phong kiến, thời cách mạng tư sản, và thời cách mạng vô sản" (Bđd, tr. 68). Về sau, cách gọi "thời Trung đại" đã được nhiều người dùng, có người còn chủ động thay đổi cách gọi cũ ("văn học Cổ"õ, "văn học Cổ điển"...) khi sách hay giáo trình của họ được tái bản. Và gần đây, Trần Đình Sử cũng thống nhất sử dụng "thời kỳ văn học Trung đại" như một khái niệm mặc nhiên trong cuốn Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại.
Nhưng khoảng mấy năm lại đây, bản thân tôi lại tự thấy không yên tâm về thuật ngữ mà mình đã chọn. Bởi vì cái gọi là Trung đại là gì? Hoàn toàn không có gì khác ngoài cái hàm nghĩa đó là thời kỳ Trung cổ. Đó chỉ là dịch lại một cách vắn tắt thuật ngữ Période de Moyen Âge hay Période Médiéval trong lịch sử châu Âu. Song chuyển một thuật ngữ của lịch sử châu Âu sang lịch sử văn học Việt Nam và rộng hơn là lịch sử văn học phương Đông liệu có khiên cưỡng hay không khi ta biết hai phạm trù này không ăn nhập gì với nhau? Thời Trung cổ châu Âu là một thời kỳ chưa hình thành dân tộc, được đánh dấu bằng nền chính trị chia nhỏ thành các tiểu vương quốc và một xã hội nông nghiệp phân chia thành hai giai cấp quý tộc và nông dân. Đó là giai đoạn lịch sử "đêm trường", là sự thiếu vắng lý tính và khoa học, là sự ngự trị của Nhà thờ và lãnh chúa phong kiến, là "một nền văn minh, trong giới hạn gốc gác của nó, được nhào luyện kể từ những yếu tố mà đại đa số là có tính cổ điển và tính giecmanh hay là tính Cơ đốc giáo"(18) . Tôi chưa được đọc công trình Lịch sử văn học châu Âu của Dương Châu Hàn, Ngô Đạt Nguyên, Triệu La Nhuy viết năm 1964 (19) mà Gs. Trần Đình Sử đã viện dẫn để nói rằng họ đã mở rộng thời Trung đại đến tận thế kỷ XVII tức là khi chế độ phong kiến châu Âu đã thật sự suy tàn, nhưng trong các bộ sách tôi đã đọc như Encyclopédie Française 1973, Encyclopedia Universalis 1990-1995, và ngay cả Petit Larousse Ilustrée 1993, thì giới hạn thời Trung cổ vẫn chỉ là từ năm 476 khi đế quốc La-mã sụp đổ, cho đến khi Mahomet II (tức Mehmet II, 1429-1481), vua Thổ-nhĩ-kỳ đánh chiếm Constantinople vào năm 1453. Trung cổ hiểu theo nghĩa này chính là gói gọn trong thời kỳ độc tôn của Giáo hội Thiên chúa giáo chứ không phải bao quát toàn bộ lịch sử chế độ phong kiến. Về phương diện văn học, tiếp theo thời đại Trung cổ sẽ là thời đại Phục hưng ở nửa cuối thế kỷ XV, thời đại Baroque ở thế kỷ XVI-XVII, thời đại Cổ điển ở thế kỷ XVII, thời đại Tiền lãng mạn ở nửa đầu thế kỷ XVIII. Những thời đại này đều nằm trong lòng của chế độ phong kiến nhưng so với thời đại Trung cổ thì đã khác một trời một vực.
Riêng ở Việt Nam cho đến nay, cách dùng khái niệm Trung đại vẫn là một ước lệ không có tính xác định về mặt nội hàm. Nói rằng tính chất "trung đại" bắt nguồn từ sự tỏa chiết của ý thức hệ Nho giáo đối với đời sống tư tưởng, tình cảm của toàn xã hội nhưng thật ra, trong 10 thế kỷ tồn tại của chế độ phong kiến tự chủ, đâu có phải thời nào Nho giáo cũng được suy tôn lên địa vị "giáo chủ" về mặt tinh thần. Là một nước nhỏ nằm trên đường trục giữa Trung Hoa và Ấn Độ, cơ chế sinh tồn của dân tộc chúng ta vẫn phải là sự dung hợp,cộng tồn của nhiều luồng tư tưởng. Từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV, "tam giáo đồng nguyên" là cách ứng xử thích hợp nhất trtước thế động tất yếu của lịch sử. Đến thế kỷ XV, sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, nhất là sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi hoàng đế, Nho giáo cũng bắt đầu lên ngôi, giữ vị thế độc tôn, nhưng cũng chỉ độc tôn được dến hết thế kỷ XVII là rơi vào triền miên khủng hoảng. Từ đó đến khi chế độ phong kiến chấm dứt, các tập đoàn phong kiến nhiều lần cố vực lại kỷ cương bằng Nho giáo, sử dụng Tống Nho như một công cụ thống trị độc nhất về tư tưởng. Tuy nhiên, trong mạch ngầm của đời sống, các hệ tư tưởng phi Nho như Phật, Lão Trang, Đạo giáo, các tôn giáo tín ngưỡng bản địa, và các tôn giáo phương Tây mới du nhập... vẫn cứ có đất sống mạnh mẽ, nó làm nên một thứ khí hậu tinh thần pha trộn nhưng lại dễ thở, có tác dụng hóa giải sức ép độc đoán của Nho giáo từ bên trên.
Như vậy, soi vào văn học, khi chúng ta mệnh danh cho cả 10 thế kỷ văn học cổ Việt Nam bằng mấy chữ thời Trung đại, phải chăng vô hình trung chúng ta đã đem một thuật ngữ châu Âu vốn mang hàm nghĩa rất hẹp - là một thời kỳ thiếu vắng những giá trị văn học đích thực - úp chụp lên cả một chặng đường rất dài với nhiều thành tựu rực rỡ của văn học chúng ta, trong đó chắc chắn đã có những tư trào phục hưng quan trọng - dĩ nhiên phục hưng hiểu theo nghĩa không máy móc nô lệ khái niệm thời đại Phục hưng phương Tây ở thế kỷ XV. Và điều này đã được nhắc đến trong cuốn sách của N. I. Niculin Văn học Việt Nam thế kỷ X đến thế kỷ XIXnăm 1977 (20) . Ngẫm nghĩ lại tôi mới hiểu vì sao Nguyễn Lộc dùng khái niệm "thời kỳ văn học Truyền thống" và Trần Đình Hượu thì một mực gọi là "văn học Cổ điển" (nên nhớ, trước Trần Đình Hượu 20 năm, trong bộ sách Bảng lược đồ văn học Việt Nam Thanh Lãng cũng đã sử dụng cụm từ "thời đại văn học Cổ điển" một cách có chủ kiến để gọi văn học Việt Nam từ thế kỷ XII đến giữa thế kỷ XIX) (21) . Và tôi cũng có linh cảm rằng Gs. Đặng Thai Mai đã có lý khi gọi tên bộ phận nghiên cứu của Viện Văn học mà hiện tôi đang phụ trách là "văn học Cổ Cận đại", kể từ 1959. Mấy chữ "văn học Truyền thống", "văn học Cổ điển", "văn học Cổ" hay "văn học Cổ Cận đại" không cho ta cái ám ảnh trung cổ như cách gọi văn học Trung đại.
Gần đây, cũng nhân đọc hai bộ sách Trung Hoa văn học thông sưû, và Trung Quốc văn học sử, tôi bỗng bỡ ngỡ khi các nhà văn học sử Trung Quốc vẫn "cố thủ" ở hai chữ Cổ đại mà họ dùng từ rất xưa, dành cho quãng đường văn học rất dài từ Tiên Tần đến 1840 hoặc đến tận 1919. Khái niệm "cổ đại" mà họ dùng bao gồm từ xã hội nguyên thủy, xã hội nô lệ, cho đến xã hội phong kiến (hoặc có đổi mới thuật ngữ chút ít là Thượng cổ, Trung cổ và Cận cổ), nhưng về mặt nội dung, lại không phải là một thời kỳ "vô hồn", trái lại, đây là "bộ phận tổ thành trọng yếu trong di sản văn hóa [Trung Quốc], có thể nói là một báu vật đáng tự hào nhất của văn minh Trung Hoa. Bởi vì, thông qua văn học Cổ đại, chúng ta không những có thể trải nghiệm những bước biến đổi thịnh suy hưng vong của nước cổ 5.000 năm, có thể sờ mó, tiếp xúc với cái linh hồn phong phú mà sâu thẳm của cả một dân tộc vĩ đại, mà hơn nữa, đứng về góc độ hưởng thụ tinh thần và thưởng thức nghệ thuật mà nói thì còn giống như được đi vào một tòa cung điện mỹ lệ xây nên bằng ngôn ngữ văn tự, được dạo qua một vùng kỳ hoa dị thảo, đâu đâu cũng là vườn tược mênh mông um tùm quanh quất, từ đấy mà cảm nhận được cái nguy nga cao tột của nó, lại cũng hiểu dược sự rạng rỡ hưng thịnh và vẻ đẹp nuột nà của nó" (22) . Cái nghĩa "cổ đại" mà các học giả Trung Quốc hiện nay dùng cho thời kỳ văn học cổ của họ, chưa bao giờ có ý vị ảm đạm như cách gọi văn học Trung cổ trong văn học châu Âu.