|
Post by truongtuphong on Jul 8, 2009 0:57:50 GMT -5
Cây Đại Thụ Toan Ánh Phần 1 LaiQuangNam Ảnh chụp năm 2008, khi Cụ đã 94 tuổi đang ngồi uống cà phê cùng bè bạn vong niên tại Bình Thạnh (ảnh tư liệu của NVA) Ba khuôn mặt lớn về dân tộc học của đất nước tôi đã để lại trong lớp hậu bối "tỉ như chúng tôi" nhiều ngưỡng mộ đó là các ông Toan Ánh ( miền Kinh Bắc ), Sơn Nam (miền sông nước Nam bộ ), Nguyễn Văn Xuân ( đất Quảng nam ). Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam thì đã ra đi, nay chỉ còn mỗi cây đại thụ Toan Ánh lặng lẽ ở tuổi 95 như một chứng nhân. Bắc Ninh là một tỉnh thuộc miền Bắc nước Việt Nam, Đời Hồng Đức ,triều Lê gọi là Kinh Bắc. Miền đất Kinh Bắc là vùng đất địa linh nhân kiệt, quê hương của Kinh Dương Vương và tám đời vua Nhà Lý, nơi hội tụ của kho tàng văn hoá dân gian, nơi có làng tranh dân gian Đông Hồ; nơi đó là quê ngoại của thi hào Nguyễn Du. Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc từ khi lập quốc cho tới cuối thế kỷ19, vùng đất văn vật này đã cống hiến cho đất nước 17 trạng nguyên và 622 tiến sĩ . Toan Ánh là người con xuất sắc của quê hương này. Toan Ánh tên thật là Nguyễn Văn Toán, bút hiệu này là do nói lái hai chữ "Anh Toán", một cách chơi chữ. Ông sinh năm 1914, tại làng Thị Cầu sđd(1),thuộc tỉnh Bắc Ninh, trong một gia đình có truyền thống nho giáo, sớm được thủ đắc một nền văn hóa nho học vững vàng, song hành với kiến văn Pháp ngữ tương đối. Vào năm 1934 thì ông đã học lớp đệ tứ tại trường Trung học tư thục Gia Long tại phố Phủ Doãn Hà Nội. Sau, ông đậu bằng thành chung. Ông làm thơ rất sớm , vào năm 1934 ông đã làm bài thơ đăng báo Loa, ký tên là Đào Vân, đến bây giờ là năm 2009 thì không biết ông có còn làm thơ nữa hay không, nhưng khi vào tuổi trên dưới 70 thì ông vẫn còn làm thơ tình. Thành thực mà nói, thơ của ông không hay, đó là lối thơ xưa, lời thơ của thế hệ sinh trong thập niên 20 thuộc thế kỹ trước, thấm đẫm phong cách trữ tình quan họ; lời thơ thuộc loaị hát trêu ghẹo đưa tình, tương đối chân chất dễ hiểu..., khác xa với lối thơ mới thuộc thế hệ Huy Cận ,Xuân Diệu, càng xa với thế hệ trẻ bây giờ. Năm 1935, Ông đã trở thành ông Phán, ngạch thư ký tòa sứ, nên ông càng có dịp đi nhiều, chơi nhiều, và là cơ hội vàng để ông càng gần gủi hơn với các "liền anh liền chị" cùng đi hát quan họ khắp vùng Kinh Bắc; chính nhờ vậy mà khi tìm về các tác phẩm viết về lãnh vực folklore thì ông là cây đại thụ. Khi phát biểu về lý do nào khiến ông đã thành công tương đối nhờ viết kỷ các sách thuộc về thể loại quan họ, về cầm ca Việt Nam, ông cười, "_ là nhờ thời trai trẻ bay bướm quá"! . Vốn học giỏi, mà làng Thị Cầu của Ông chỉ có các liền anh( vai nam ) hát quan họ mà không có liền chị (vai nữ ) hát quan họ, nên ông luôn là cây "đinh " trong số các chàng trai ấy. Sống thật thì viết thật,cảm xúc thật,dĩ nhiên là hay thật. Trai tài thì gái sắc là chuyện xưa nay. "_Thích nhau là một việc, yêu nhau lại là một chuyện khác, lấy nhau lại là một chuyện khác nữa!" sđd(1) nhưng một khi đã lập gia đình thì ông cắt hết..., và cũng nhờ những cái lãng mạn tình cờ như vậy mà ông đã có kinh nghiệm sống khi viết về quan họ Bắc Ninh quê mình. Năm 1936 ông lãnh 10 $ nhuận bút về các bài về dân ca quan họ đăng trên Trung Bắc Tân Văn, khi mà lương tháng ông Phán tòa sứ vào năm ấy (1937) là 27$. Bài này được đánh giá rất cao về tính dân tộc. Từ các bài báo trên, ông tập hợp lại làm cái sườn cho hai tập sách nổi tiếng về sau đó là Hội hè đình đám và Cầm ca Việt Nam. Người đàn ông bay bướm như vậy mà một khi đã lập gia đình thì lập tức sống cuộc đời tình cảm nghiêm túc, đúng như ông nói "_Thích nhau là một việc,yêu nhau lại là một chuyện khác, lấy nhau lại là một chuyện khác nữa!" sđd(1). Năm 1939, Ông lập gia đình, vợ ông là người đẹp nhất tại quê nhà, bà nhỏ hơn ông 9 tuổi. Họ sống với nhau được ba mươi năm, có mười một người con. Vào năm ông 55 tuổi (1969) thì người vợ yêu quý của ông qua đời, lúc ấy bà 46 tuổi. Tính đến nay, 2009, đã 40 năm qua, ông sống đời góa bụa. Ông sống vui, sống khỏe, sống thọ là nhờ sự thương yêu và săn sóc của người con gái rượu, chị là một bác sĩ. Vào năm 1971(?), ông viết tập hồi ký mang tên là "Nhớ thương" nói về những ngày sống bên người vợ yêu quý của mình. Viết với hai mong ước, một là quà cho các con ông , các cháu ông biết rằng chúng đã có một người mẹ, một người bà đáng yêu và đáng kính như thế, hai là mong ước rằng nếu tập hồi ký "Nhớ thương" mai này mà trở thành tác phẩm văn học, thì người vợ yêu của mình sẽ sống mãi cùng tác phẩm. Bàng Bá Lân là một người bạn thân của ông có lúc hỏi ông rằng: " _sự nhớ thương trong lòng Anh tưởng như thế đã đủ, Chị mồ đã yên, mả đã đẹp, thế mà Anh còn chưa hài lòng sao mà lại xây thêm cho bà một ngôi mộ tinh thần bằng nhớ và thương ?". Ông trả lời nhanh "_có lẽ là do nền giáo dục của cả hai gia đinh chúng tôi đã khiến chúng tôi tôn trọng nhau, biết quên cái dở, nhớ điều hay, suy cho cùng yếu tố bình yên trong gia đình đa phần do người phụ nữ nắm giữ cả" và "tại bà nhà tôi mất sớm, chứ "nàng" mà còn ở trên cõi đời này thì tôi yêu "nàng" hơn thế nữa!",tâm tình này của ông được thố lộ khi ông đã 72 tuổi. Tình ơi là tình!. Riêng với những người "nói móc họng " ông, khi họ được đọc tác phẩm "Nhớ Thương " này, thì dè bỉu "_ vợ của Toan Ánh cũng tầm thường như bao phụ nữ Việt khác, có gì nổi trội đâu mà Toan Ánh cũng bày đặt viết hồi ký.!" Ông chỉ cười và rằng : " _vâng, vợ tôi thì bình thường lắm!, chỉ có những người sống một vợ, một chồng mới có tình yêu như thế, chứ mấy người chồng đôi vợ ba làm sao mà hiểu được!". Một lớp già truyền thống có lối suy nghĩ cực kỳ nhân bản. Một "Nếp cũ " quá đẹp của người Kinh Bắc! Những tác phẩm về phong tục vùng đất và con người Kinh Bắc của ông nói riêng, và miền Bắc Việt Nam nói chung theo phong cách xưa vô cùng quý giá trong kho tàng văn hóa cổ kính của dân tộc ta. Ông đã trọn đời theo đuổi, đã kịp ghi thành sách giúp cho thế hệ mai sau biết những phong tục tập quán của tiền nhân một cách tương đối rõ ràng từ khi trẻ mới sinh ra, lớn lên học hành, thi cử, cư trú, tang lễ, mồ mả ra sao ....mà điển hình là tác phẩm "Nếp Cũ Con Người Việt Nam" trong đó đã ghi rõ các khoản mục như một cuốn tự điển. Vẫn còn kịp trước khi ông đã quá già!, ông đã ghi lại , đã viết lại thành sách các thú vui chơi của ông bà ta tại vùng Kinh Bắc, các câu hát quan họ, các hội hè, thú thăm viếng chùa chiền vào các ngày lễ hội.
|
|
|
Post by truongtuphong on Jul 8, 2009 1:00:14 GMT -5
Nhà văn Toan Ánh qua đời Thất Sơn Nhà văn Toan Ánh: 'Hãy quay về với giá trị truyền thống' Đưa tin : 23h50 ngày 14/5, nhà văn Toan Ánh trút hơi thở cuối cùng sau một thời gian nằm điều trị tại bệnh viện Nhân dân Gia Định, TP HCM, thượng thọ 96 tuổi. Linh cữu được quàn tại tư gia, địa chỉ số 20/302 C, Phan Huy Ích, phường 12, quận Gò Vấp, TP HCM. Lễ viếng bắt đầu từ ngày 16/5 đến ngày 19/5. Sau đó nhà văn được hỏa táng tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa. Gia đình của nhà văn cho biết, ông vào nằm điều trị bệnh già tại bệnh viện Nhân dân Gia Định đã hơn 10 ngày nay. Cả nhà lúc nào cũng túc trực bên giường bệnh của ông. Dẫu biết, người già tuổi cao sức yếu nhưng do nhà văn tỉnh táo đến phút cuối của cuộc đời nên sự ra đi của ông là rất đột ngột. Nhà văn Toan Ánh (phải) và giám đốc NXB Trẻ bà Quách Thu Nguyệt. Ảnh : Lam Điền. Nhà văn Toan Ánh tên thật là Nguyễn Văn Toán, sinh năm 1914, tại Đáp Cầu (Bắc Ninh). Suốt cuộc đời mình, ông dành phần lớn thời gian để ghi nhận, khám phá những phong tục tập quán, lề thói dân gian, lễ hội đình đám, tín ngưỡng, địa dư chí, ca dao... của nhiều vùng miền trên đất nước. Trước đây sách của nhà văn chỉ được xuất bản lẻ tẻ ở một vài NXB. Nhưng đến tháng 5/2004, nhà văn ký hợp đồng nhượng quyền có thời hạn để NXB Trẻ độc quyền xuất bản trên toàn quốc bộ Toan Ánh toàn tập (gồm 124 tác phẩm đã in và chưa in) trong thời hạn 10 năm (2004-2015). Trong số này có nhiều bộ sách giá trị và quan trọng với văn hóa và truyền thống dân tộc như: bộ Nếp cũ gồm 11 cuốn, nói đầy đủ về vòng đời của một con người Việt Nam (từ lúc thai nghén, sinh ra, đi học, đi làm, lập gia đình, chết, cải táng..., đã in 6 cuốn). Bộ Việt Nam chí lược gồm 5 cuốn mới in được 3: Người Việt đất Việt, Miền Bắc khai nguyên, Cao nguyên miền thượng (2 cuốn còn lại là: Miền Trung kiên dũng, Miền Nam phú cường). Tập truyện Trong lũy tre xanh (viết năm 1957) phê phán hủ tục làng quê. Cuốn Phong lưu đồng ruộng (1958) ca ngợi nét đẹp đời sống tinh thần thôn xóm. Bó hoa Bắc Việt (1958) nói về phẩm chất đẹp của người phụ nữ Việt Nam thì Tiết tháo một thời (1957) nêu gương khí phách của sĩ phu Việt Nam... Thất Sơn
|
|
|
Post by truongtuphong on Jul 8, 2009 1:03:24 GMT -5
Cây Đại Thụ Toan Ánh Phần 2 LaiQuangNam
Hôm nay, tại Việt Nam cụ vẫn còn nằm trong hòm kiếng, nhìn khuôn mặt cụ thanh thản, các con cụ đã tề tựu về vây quanh. Chu đáo và ấm cúng. Nắp vẫn chưa đóng, có lẽ còn đang chờ người con trai còn ở Canada chưa về kịp, giờ này chắc anh đang sốt ruột chờ chuyến bay để về Sài gòn nhìn cha già lần cuối. Văn là người.
Xin mời đọc thử hai đoạn văn ngắn của Lão tiền bối viết vào giữa thập niên 60_70.
-o0o0-
Làng Xóm Việt Nam - Toan Ánh
01-Chùa
Chùa thường xây ở nơi phong cảnh thanh u, bởi vậy người ta hay tìm nơi gò cao để xây chùa, nếu không người ta cũng tân đất lên cho cao hơn nền thường.
Nhiều làng cất chùa ở những nơi danh lam thắng cảnh thật là rộng rãi đẹp đẽ như chùa Hương làng Yến Vĩ, tỉnh Hà Đông, hoặc chùa Thầy làng Thụy Khê, tỉnh Sơn Tây. Những làng trung du thường xây chùa ở ven sườn núi hay trong hang núi như chùa Láp làng Tích Sơn, tỉnh Vĩnh Yên, chùa Trầm, làng Long Châu, tỉnh Hà Đông .v.v...
Chùa từ ngoài đi vào thường đi qua một sân đất ở trước tam quan. Hai bên có hai hàng phỗng đá hoặc chó đá.
Từ sân đất bước lên tam quan có một bực xây gạch.
Tam quan là một căn nhà ba gian có ba cánh cửa khá rộng, và ba cánh cửa này đều được coi như ba cửa chính, thường đóng quanh năm, trừ những ngày hội hè, sóc vọng hoặc Tết nhất.
Cạnh tam quan về phía tay phải, thường có thêm một cổng bên, cổng này luôn mở trong những ngày thường, và trên cổng này là gác chuông. Cũng có chùa, gác chuông ở trên tam quan. Trên gác chuông có quả chuông lớn. Tăng ni lên thỉnh chuông phải leo một cầu thang có khi xây bằng gạch có khi chỉ là một chiếc thang gỗ.
Nhà tam quan thường chỉ dùng làm nơi cho các hào mục trong làng hội họp khi bàn tính tới việc chùa.
Khỏi tam quan là một lớp sân rộng lát gạch.
Qua khỏi lớp sân này là nhà thờ Phật gồm chính điện và nhà bái đường.
02-Hội chùa
Khi nói đến hội làng phải nói tới cả hội chùa.
Chùa thường mở hội vào dịp kỵ nhật vị sư tổ đầu tiên của ngôi chùa.
Hội là hội chùa, nhưng sự tổ chức cũng phải được sự đồng ý, nhất là sự bảo trợ của ban hội đồng kỳ mục trong làng.
Thường ngày hội, ban hội đồng được nhà chùa xin phép và mời họp ở tam quan chùa để ấn định chương trình của ngày hội. Tuy gọi là hội chùa nhưng ngoài việc tụng kinh lễ Phật, cũng có những tổ chức những trò vui như đánh đu, cờ người, cờ bỏi, v.v... để dân làng mua vui. Ban hội đồng kỳ hào ngoài việc bảo trợ về tinh thần cho nhà chùa, còn giúp đỡ thêm cả tài chính để tổ chức những cuộc đàn chay; những chi phí về các trò vui cũng do quỹ làng gánh vác.
Nhân dịp giỗ sư tổ này, nhà chùa làm cỗ chay trước là cúng Phật, sau là cúng sư Tổ. Cúng xong, nhà chùa khoản đãi dân làng tới lễ.
Những người đi lễ, ăn bữa cơm chay, tục gọi là thụ trai đều tự ý góp tiền bạc ít nhiều để giúp đỡ nhà chùa. Thụ trai xong, khi ra về họ được nhà chùa tăng lộc Phật gồm oản, chuối.
Oản do nhà chùa đồ xôi đóng thành oản, còn chuối một phần do nhà chùa mua ở chợ, nhưng phần lớn do thiện nam tín nữ mang tới lễ Phật với trầu, cau hương, nến.
Trong những ngày hội chùa, các bà vãi thường tới chùa kể hạnh, nghĩa là tụng những bộ kinh nhắc lại sự tích đức Phật và chư vị bồ tát với đức hạnh của các người. Thường các bài kể hạnh hay nhắc tới sự tích Quan Âm Thị Kính với những sự hàm oan của người.
Toan Ánh -o0o0-
Cảm nhận của người ăn theo laiquangnam :
01-Phần tản văn
Cảnh sắc xưa giờ này liệu có còn?. Tỉ lệ còn bao nhiêu phần trăm ? ( ?%) .
Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ
Vũ đình Liên ...
Đọc văn cụ nhẹ nhàng có lẽ chúng ta cũng thú vị chẳng thua kém gì khi đọc một bài thơ Đường của Thường Kiến. Càng thú vị hơn nếu như bạn tuổi đời đã lơn lớn, nay đang đi bên cạnh người bạn đời, hay bạn là người trẻ tuổi đang đưa người yêu vào viếng chùa , cảnh sắc nầy khiến tâm hồn bạn càng thêm sâu lắng. Chúng ta cũng còn gặp đó đây những cảnh chùa như thế này ở Huế ,trên đường đi lên lăng, hay một vài chùa đâu đó còn sót... .Mong quý bạn gặp may mắn , không bực bôi vì bị sự quấy rầy bởi lực lượng hùng hậu ăn xin, xin đểu và vv .....
常建 Thường Kiến Nguyên tác 題破 山 寺 後 禪 院 清晨 入 古 寺, 初日 照 高 林。 曲徑 通 幽 處, 禪房 花 木 深。 山光 悅 鳥 性, 潭影 空 人 心。 萬籟 此 俱 寂, 惟聞 鐘 磬 音。
Phiên âm Đề Phá Sơn tự hậu thiền viện
Thanh thần nhập cổ tự Sơ nhật chiếu cao lâm Khúc kính thông u xứ Thiền phòng hoa mộc thâm Sơn quang duyệt điểu tính, Đàm ảnh không nhân tâm Vạn lại thử câu tịch Duy văn chung khánh âm.
Chú vài từ và tạm dịch nghĩa
Thiền viện sau chùa phá sơn Sáng sớm vào cổ tự Trời ban mai chiếu rừng cao Đường quanh co thông với vùng thâm u Phòng thiền cây hoa rậm Núi sáng làm đẹp lòng chim chóc Ảnh đầm khiến lòng thanh thản Vạn tiếng đều im lặng Chỉ nghe tiếng chuông khánh
Thanh thần là thời điểm ban mai lúc mặt trời mới mọc .
Dich thơ quốc âm
Phá sơn tự hậu thiền viện
Lòng thanh thản bước vào cổ tự Mặt trời mai chiếu nhứ rừng cao Quanh co u tịch nẽo vào Phòng thiền hoa đượm cây thao thức nhìn Núi tỉnh lặng muôn chim an trú Mặt hồ quang lòng tự thảnh thơi Nơi đây tỉnh lặng tuyệt vời, Có chăng chuông khánh rót lời vào tim! . Laiquangnam
02-Phần thi ca
Tôi nhớ tuồng như giáo sư Nguyễn Hưng Quốc viết trong tập tiểu luận "Nghĩ về thơ" có ý kiến trải nghiệm như thế này " ngày nay , dòng thơ Song thất lục bát hầu như mất hẳn, và dòng thơ thất ngôn bát cú thì hay được dùng trong mảng văn thơ trào phúng, nó nằm trong các ngóc ngách nào đó trên các trang nhật báo, hay tuần báo .." .Tôi tự hỏi không biết khi làm bài thơ dưới đây, ở độ tuổi 60 ngoài, cụ viết " dễ hay khó ". Cụ viết với ý trào phúng hay viết như là lời tự sự nội tâm cho chính mình bằng thể thơ quen thuộc của người xưa. Trường chay
Ớt chẳng, gừng không vị vẫn cay Nhờ ơn trời đất được trường chay Rau đay,rau muống quên thời thế Khoai ngứa khoai lang lấp tháng ngày Quen thói dạ dày chê cá thịt Đói lòng thân xác sợ mưa mây Tòa sen Đức Phật cười khen giỏi Ngày trước ...tao tu cũng giống mày Toan Ánh ( Nguyễn Anh Khiêm sao lục )
Đôi khi đọc nhanh Khách thơ không thấy được cái tài hoa của người sáng tác.
Xin quý khách thơ cho tôi được làm "tài lanh tài khôn" lần này mà lạm bàn đôi điều mình cảm nhận, bởi tự hỏi _"có gì hay để bản văn này còn có người lớp sau ghi nhớ trong lòng?" . Đọc lại và ngộ ra một điều, ngôn ngữ Việt đáng yêu biết chừng nào! .
Ai lỡ có lần dại mồm dại miệng phát biểu "nôm na là cha mách qué" bởi cho rằng chữ viết của ta ta làm gì có sự "khóa tự" như chữ Tàu, được bởi các bộ trong chữ Tàu khiến chữ nghĩa của họ được phân nghĩa rõ ràng, nhưng họ đâu biết rằng dân Quảng Nam tụi tôi nói các âm sai chính tả nhiều lắm, nhưng viết thì tương đối ít sai trừ các lỗi hỏi ngã thì sai lia chia, khó khắc phục. Tại sao vậy , nhờ đâu mà ít lỗi ?, ngay từ khi học vở lòng abc tại quê nhà thì thầy giáo già khi dạïy tập viết cho đám học trò nhỏ, thầy luôn luôn viết biễu diễn cho họïc trò xem trong tập của từng đứa, thầy vừa viết vừa giảng ý nghĩa của từng ký hiệu của âm, tỉ như là đay là rau đay, đay còn có nghĩa là đay nghiến, còn đau đớn thì là đau, a+u ( rất dễ lầm khi nói, khi nghe âm giọng trong tiếng Quảng); rau muống thì muống có g, mà muốn không g nghĩa là ham muốn; ngứa? chần chừ một lát ...thầy cười hóm hỉnh thì gãi! ... vì không có nước để tắm! hiểu chưa?...., rồi thầy hạ mục kính nhìn người học trò đang còn quẹt mũi, cười !, ôi cái cười của thầy giáo tôi ngày ấy sao mà dễ thương mà gần gũi đến như vậy; rau lang thì có g , lan là tràn lan thì không g ..rõ ràng chậm mà tuyệt hảo, ngày nay người Tàu đang cố hết sức la tinh hóa thứ chữ vuông của mình, họ còn đang chật vật lắm.
Do ăn chay nên ông không cho chúng ta ăn ớt và gừng cho đủ mâm đủ bát. nhưng lại nhắc, tuồng như có ý khiêu khích, cắc cớ là chỗ ấy, hóm hỉnh là chỗ ấy. "Ớt chẳng,gừng không vị vẫn cay!",. không biết câu này ông có chơi chữ, nói không là có, nói có là không ? . Tôi nghĩ cái ác trong hành văn của người Kinh bắc này lại là nhứ nhứ cái món khai vị cho chúng ta đày màu sắc cay nồng ớt, món "đầu tiên?", mà không có. Trời đất ơi! trong phép ăn chay ớt là thực phẩm người dọn ra phải cố tránh. Nhắc làm gì, quên không được sao cụ ơi!.Không ăn mà còn muốn nữa huống hồ gì ăn, thì ra một cách" tăng đô" của ngôn ngữ thơ. Không ăn những thứ kích thích này mà ...ngứa!, mà đay! ( không biết" ông già tây học này "có chơi chữ "die" không ? , có thể lắm! "Bắc kỳ thâm mà! " [con xin lỗi cụ, với con, cụ là " number one" rồi, cụ dễ thương quá mà, tại vì quen miệng cái thành ngữ Việt, cố tật này tập quên mà chưa bỏ được đó thôi ], đã "die" mà còn "muốn", còn "lan", còn mong "lấp tháng ngày". "Đói lòng thân xác sợ mưa mây" như là một bất hạnh của người đàn ông trung niên vì "trường chay"! vào thời buổi ấy .
Xét cụm "sợ mưa mây " , nếu trong đó "sợ mưa mây" mà dùng đúng từ là "mưa mây" , thì mưa mây là cơn mưa chùm mây. Các cơn mưa làm tăng sự oi bức bởi lượng nước quá ít làm hơi nóng trên mặt đất bốc lên mang theo hơi độc khiến người trong cuộc rất dễ bị bịnh, bên cạnh cái khổ, nước hiếm hứng đâu đủ tắm, lâu tắm rửa thì càng ở dơ, càng ở dơ thì càng ngứa bạo,thì càng gãi bạo...thế mới thấy cái tuyệt kỹ làm sao "cái ông già này!"; nhưng nếu mưa mây là "mây mưa" thì người Kinh Bắc này đang buồn vì thiếu ba cái chuyện ..."muôn đời "... , không biết người đàn ông vào tuổi 60, lúc ấy đã muốn dùng chữ nào?. Đúng là một "ông già Bắc kỳ dễ thương", người đã một thời bay nhảy mà nay đành ăn "Trường chay" mới tội nghiệp làm sao. Ăn mà lòng người trong cuộc chẳng muốn ăn. Lỗi tại cụ thôi, đã "Trường chay", vậy mà mà còn nhắc chi bác "ớt" , chú "gừng" mà khiến ông càng nhớ những ngày nào đó , ông hay dùng lai rai trong các buổi vui cùng bè bạn, cho nên " Đói lòng thân xác sợ mưa mây" là một câu than, phải chi có dăm ba ngày thịt thà thì đâu có sợ mưa mây như dzầy.Thiệt hết biết! Cụ Toan Ánh ơi là cụ Toan Ánh!.
Đọc bài thơ mà tuồng như như thấy cụ đang gãi gãi như thể Tề thiên đại thánh trong Tây du ký , đang khổ sở dấu cây thiết bản yếu xìu trong lưng, vừa phân bua với Phật tổ, lí nhí vài câu nhờ Phật tổ cứu bồ, vì lòng mình đang có điều khó nói. Không nín được, Bụt đành bật miệng , "Ngày trước ...tao tu cũng giống mày!". Hạnh phúc thay khi Cụ đã gặp đúng ông Bụt muôn đời trong tâm thức người Việt. Một ông Bụt tu khổ hạnh và thanh tú, nụ cười hiền khô, chứ đâu có như cái ông Bố Đại hòa thượng của Tàu đưa cái bụng đầy ứ mỡ cười toe toét thấy mà ghê, ông Bố Đại đang được thờ đâu đó trên đất nước này như là vị "phật tương lai" như trong các chùa mang rặc bản sắc Tàu, có lẽ đa phần với các thầy chùa ít học nên họ thần tượng thứ chữ hình vuông hơn chữ quốc ngữ của con dân Đại Việt Lý Trần chúng ta đang dùng chăng..
Bụt cười ...
"Ngày trước ...tao tu cũng giống mày!".
Ước chi đời mình trong giấc mơ được thấy Bụt xoa đầu mình cười
"Ngày trước ...tao tu cũng giống mày!".
Chúng con xin chúc cụ đi vào cõi vĩnh hằng , lòng thư thả , sớm được Bụt đưa tay cứu độ.
Saigon, giữa tháng năm . Laiquangnam
|
|