Post by admin on Jun 23, 2009 4:54:15 GMT -5
"GỌNG KÌM LỊCH SỬ" VÀ TÁC GIẢ BÙI DIỄM
Mạc Kinh
Trời Paris vào thượng tuần tháng 3/2001 đầy mưa và gió lạnh. Thời tiết thật xấu. Nhưng có cái lạ, là ngoại cảnh đổi thay thế đó vẫn không mảy may ảnh hưởng đến tâm hồn du khách – mà cứ phải là người khách phương xa Việt Nam kia, nhất lại, đã từng có một thời trẻ trung chôn chân bên dòng sông Seine tình tứ. Vì cứ phải là kẻ giang hồ lữ thứ ấp ủ một tâm sự về nỗi nước tình nhà mới cảm nhận bằng hết niềm rung động man mác trước trời Ba Lê hoa lệ đổi mầu. Cái trẻ ở một thời lãng mạn hay cái lãng mạn còn vấn vương trong buổi hoàng hôn đời người thực là huyền ảo. Như quyện với nhau để rồi hòa tan trong cung đàn thơ mộng ở nhà thơ, nhà nhạc sĩ Cung Trầm Tưởng mãi mơ màng nhớ về Paris muôn thuở. Hoặc, ở một văn tài trí thức Nguyễn Mạnh Tường ngày xa xưa, vào cái đêm người du học sinh ấy giã từ bóng dáng kiều diễm người bạn tình - nàng thiếu nữ đất Ba Lê, để đặt chân xuống con tầu biển vượt trùng dương trở về xứ sở quê hương, lưu luyến thốt lên... Ecoute! viens t’asseoir auprès de moi avec tes yeux de tous les jours... Vâng, cái ánh mắt nhẹ như sương khuya, dung dị có như thế nhưng đã là một trời thương nhớ ray rứt bao la đeo đuổi người ta suốt cuộc đời. Bây giờ hồi tưởng lại, hầu hết bạn đọc và chúng tôi trong nhiều thập niên thăng trầm chìm nổi, từ những buổi thoạt lao mình vào khói lửa chiến chinh ôm mộng dành độc lập giữa mùa thu 1945 thử hỏi còn lại được gì? Có biết bao sự việc đã tan biến trong tiềm thức, không còn muốn nhớ. Song có biết bao sự thật đau đớn chua xót liên quan đến một giai đoạn lịch sử sóng gió nhất, bị phản bội bi thảm nhất của nước nhà – trong quá trình dài vô tận ấy muốn quên lại vẫn khắc khoải, canh cánh bên lòng.
Không phải vì ngẫu nhiên, vì vô tình mà kẻ viết bài mở đầu trang báo hôm nay mượn khóe mắt giai nhân trong đoản thiên tiểu thuyết của nhà khoa bảng đáng thương Nguyễn Mạnh Tường để bàn chuyện nước nhà Việt Nam. Chúng tôi cố tình. Trong sự cố tình ấy, mong được bạn đọc cảm thông và lượng thứ. Vì, tình yêu đất nước về một mặt nào đó cũng ví như tình yêu người đẹp. Nó cứ đến một cách hồn nhiên, thành khẩn, tha thiết. Nó đến từ một rung động ở ánh mắt, ở đáy hồn.
Người bần cố nông Cộng sản VN chiến đấu vì miếng cơm manh áo. Họ muốn đổi đời – từ cuộc sống lam lũ, nghèo hèn ở chốn ao tù nước đọng sang cái cảnh dành đoạt lại của cải, ruộng vườn, sự giàu có trong tay các giai từng mà họ mệnh danh một cách hận thù "giai cấp bóc lột."
Người trí thức, tiểu tư sản VN lại chiến đấu không vì manh áo miếng cơm. Không hằn học, thù hận. Học thức, kiến thức, sự sung túc mở rộng nhãn quan trí tuệ của họ cho phép nhìn xa hơn những gì chỉ quanh quẩn trong bát cơm, chén cháo, manh quần tấm áo vá chằng vá đụp sau lũy tre xanh. Họ có nhiều lãng mạn tính, mơ tưởng một chân trời mở rộng có tiếng nhạc nét họa, văn hóa và văn hiến. Họ ấp ủ một lý tưởng, một hoài bão dành lại chủ quyền cho đất nước, giải thoát cho cả một dân tộc đắm chìm trong họa mất nước. Từ đó có điều kiện vươn lên cho các thế hệ tiếp nối của giống nòi Hồng Lạc, sánh kịp theo trào lưu văn minh ở thế giới bên ngoài.
Thời gian 1945 là khúc quặt lịch sử trăm năm mới có một lần. Chế độ thuộc địa Pháp tan vỡ khắp 3 miền VN. Nhưng rồi, chỉ trong khoảnh khắc, tiếng súng kháng chiến toàn quốc 1946 bùng lên. Nghe theo tiếng gọi Núi Sông, các giới tiểu tư sản trí thức quan lại phú nông sẵn sàng bỏ tất cả cuộc đời riêng để tung mình vào cuộc chiến, bảo vệ nền độc lập phôi thai ấy. Họ chưa nghe, chưa hay biết gì về tiếng gọi xa lạ "Cộng Sản". Họ chấp nhận chiến đấu hy sinh. Và mường tượng cảm nhận – bên cạnh họ có những phần tử vô sản, nghèo khổ, thất học nhưng chất phác, hiền hòa. Chủ thuyết Mác Xít chưa có thì giờ, hoàn cảnh, để làm biến chất tàn nhẫn cái gốc lương thiện ở những người răng đen mã tấu ấy như về sau này. Súng ống, đạn dược nào đã có là bao? Cứ phải có tinh thần thay cho vũ khí. Hàng triệu thanh niên trí thức tiểu tư sản – sinh viên – học sinh đã là động lực chính yếu nhập cuộc, làm đầu tầu cho khối quần chúng chỉ mới có trong tay những chiếc gậy tầm vông.
Máu lửa ngập trời Thăng Long. Họ quyết tử. Họ cứ như một Nguyễn Văn Nhung – người sinh viên Trường Luật, người đã sớm đón nhận lời dặn dò của Liệt sĩ anh hùng Nguyễn Thái Học... "không thành công thì thành nhân"..., người đã bắc thang lên mặt thành cửa bắc Hà nội cầm loa kêu gọi binh lính Pháp buông súng đầu hàng khi cuộc chính biến 9.3.45 Nhật hạ Pháp xẩy ra. Bị gục ngã trước lằn đạn, Nguyễn Văn Nhung đã chính là người Việt nam đầu tiên đổ máu đào cho nền độc lập sau 80 năm mất nước. Đám tang anh ở ngày kế tiếp, theo sau linh cữu là vị hôn thê sắp cưới của anh đã là cả một thiên tình sử lãng mạn cách mạng vô cùng truyền cảm đến toàn giới tuổi trẻ Hà nội lúc bấy giờ. Trước đêm đảo chính một ngày, Nguyễn Văn Nhung và nhà văn Tam Lang Vũ Đình Chí (tác giả thiên phóng sự nổi tiếng "Tôi Kéo Xe" và còn là nhà báo chuyên viết bình luận mà giới cầm bút Bắc Hà cảm mến) được Hiến Binh Nhật bản bí mật mời đi, đến một doanh trại cô lập hoàn toàn, để soạn thảo Lời Hiệu Triệu quốc dân, trước giờ Quân Đội Phù tang nổ súng lật đổ chế độ Bảo hộ Pháp ở VN và trên toàn cõi Đông Dương.
Cùng với nhân dân Miền Nam kháng chiến, đoàn quân thanh thiếu nữ đất Hà thành của Bà Trưng Bà Triệu, của Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung... ở lịch sử ngàn xưa, sau những ngày đêm chiến đấu giữa lòng thành phố đã phải rút khỏi thủ đô Hà nội đổ nát, trở về bao vây các thị xã Miền Bắc đặt trong gọng kìm của quân đội viễn chinh Pháp vừa trở lại tái chiếm VN. Toàn bộ chính phủ trung ương tháo chạy lên Cao Bằng Lạng Sơn Thái Nguyên (Việt Bắc) ẩn nơi rừng núi trùng trùng điệp điệp. Cơ sở kháng chiến vùng đồng bằng vội vã được thiết lập, dưới danh xưng Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Liên Khu III (gồm các tỉnh Hà Đông, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Kiến An, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Phòng và thành phố Hà nội). Tất cả hàng ngũ tiểu tư sản, trí thức, công chức quan lại đổ xô về quy tụ, tiếp tục kháng chiến trong khẩu hiệu "Toàn Dân Kháng Chiến". Không một ai thắc mắc, hoài nghi về cơ cấu lãnh đạo. Chỉ có kháng chiến với kháng chiến. Không có Cộng sản lộ diện, lộ diện về đường lối vô sản. Đảng viên CS nếu có, hầu như chỉ mới là một nét vạch nhỏ giữa những đường chỉ tay trong lòng một bàn tay. Họ cũng chỉ mới nhiều-nhiều hơn một chút, đông-đông hơn một chút so với ngày đầu tiên phong trào Việt Minh xuất hiện, hay lúc đoàn Giải Phóng Quân CS công khai ra mắt ở Hang Pác Bó đếm vừa đủ một tiểu đội súng dài hơn người với tướng Võ Nguyên Giáp sau này, cùng chụp chung bức ảnh xuất phát kia.
Từ 1946 đến 1954, Liên Khu III vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương. Người đi chiến đấu cứ chiến đấu. Người công tác ở phía sau, đôi khi sát liền mặt trận, có trăm công ngàn việc lớn nhỏ - cứ tận tình đóng góp với tất cả khả năng, sáng kiến, trong kỷ luật tự giác tuyệt đối. LK III lúc bấy giờ hầu như là vùng đất Hà thành ngàn năm văn vật thu nhỏ lại, hội tụ hằng hà sa số các nam nữ thanh niên trung lưu, thanh lịch, từng có một thời nổi tiếng là những dân "cậu", những "công tử", những nàng kiều nữ tóc thề xinh tươi của những con đường thơ mộng Cổ Ngư, Quan Thánh, của những đường phố Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Than, Hàng Bạc... trước ngày tiếng súng bùng nổ. Hay, những chàng trai túa ra từ các trường Bưởi, Thăng Long, Gia Long, Pasteur... của Hà nội thuở nào. Nhung-y chỉ là bộ đồ kaki hoặc chiếc áo trấn thủ khoác trên người với chiếc ba-lô tài sản độc nhất quàng sau lưng. Họ lao mình đi chiến đấu thế đó! Học đánh giặc là điều không mấy khó. Đụng độ, xáp trận đôi ba lần rồi quen. Miễn cứ có tinh thần. Và nào có phải là tinh thần Vô sản đâu? Tất cả, hầu như chỉ mới có duy nhất một tinh thần... lãng mạn: Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt... Xếp bút nghiên theo việc đao cung...
Đấy, từng từng lớp lớp nhân dân đất Việt, ngoài Bắc cũng như trong Nam, khởi thuỷ đứng lên đánh ngoại xâm, xây dựng nền độc lập là vậy đó. Đoàn quân Việt Minh đâu? Cộng sản đâu? Việt cộng là đâu? Trong hàng ngũ trí thức, tiểu tư sản ở LK III sẵn sàng đem đoạn đời cá nhân cho công cuộc dành độc lập gồm khá nhiều các nhà luật học, bác sĩ, công chức, quan lại, thương gia, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà nhạc sĩ như Bùi Hữu Khách, Vũ Tiến Tuân, Vũ Văn Huyền, Bùi Hòe Thực, Nguyễn Duy Quang, Lại Tư, Vũ Quốc Thông, Vũ Quốc Thúc, Đặng Mộng Ruẩn, Nguyễn Mạnh Tường, Vũ Tuân Sán, Vũ Tuấn San, Trần Chánh Thành, Bùi Suyến, Đỗ Xuân Sảng, Lê Văn Chất, Đoàn Kiểm, Phạm Hữu Chương, Trần Hữu Tước, Hoàng Văn Chí, Hà Thượng Nhân, Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tchya Đái Đức Tuấn, Hoàng Nguyên, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Mai Văn Hàm, Phạm Quang Khai, Lê Khải Trạch, Vũ Bằng, Quang Dũng, Hữu Loan, Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Lương Hàm Châu, Văn Cao... Kể sao cho xiết? Nhưng chỉ biết rằng, về sau này, khi chiếc mặt nạ CS rớt xuống, 9/10 trong bọn họ đã bằng mọi cách tìm đường ly biệt CS, trở về vùng quốc gia mới vừa tái thành lập trong tay Cựu hoàng Bảo Đại. Nói cho cùng, dẫu có những điều đáng trách, nhà vua thoái vị ấy vẫn có cái giá trị mà lịch sử VN không thể gạt bỏ sang bên được. Nếu ông không tái xuất hiện vào cuối thập niên 49-50, Việt Nam đã nằm gọn trong tay VM Cộng sản để chẳng bao giờ có được hai thời đệ nhất đệ nhị Cộng Hòa ở Miền Nam. Và, cho dù nước mất vẫn còn lưu lại một huyền thoại "quốc gia" để ngày nay hàng ngũ người Việt có tinh thần dân tộc nói chung đang chuyển mình mạnh mẽ vào quỹ đạo tự do dân chủ, phục kích ngày CS tan rã sụp đổ trên giải đất quê hương đã có quá nhiều đau thương. Có cơ hội thì nói nhiều viết nhiều, bằng không, tối thiểu phải nhắc đến chút ít về một giai đoạn lịch sử mở đầu cuộc kháng chiến, để thật giản dị và mau chóng chứng minh sự hy sinh xương máu, sự đóng góp lớn lao của quốc dân VN và rồi bị người CS trở mặt, đi theo Nga cộng, Tầu cộng cướp công, tàn sát người đồng chủng không tiếc thương. Tàn sát ngay trong phong trào đấu tố miền Bắc. Tàn sát không nương tay mọi giới quốc dân Miền Nam vào ngày tháng sau 75. Và đến tận bây giờ - đọa đầy tuyệt đại đa số người dân ba miền Trung Nam Bắc trong nghèo túng đói rách triền miên. Để đúc kết một nét nhìn chung cuộc về cái thắng cái thua giữa thực chất quốc gia với cộng sản trên đất nước chúng ta, tưởng phải thẳng thắn nhìn nhận, ở giai đoạn quá khứ, hàng ngũ dân tộc có tất cả thế thượng phong, hội đủ điều kiện tốt đẹp - kể cả tinh thần vì nước sau ngày chủ quyền bảo hộ Pháp tan biến. Nhưng đáng tiếc chúng ta không có kinh nghiệm tổ chức, rời rạc lỏng lẻo trong kết hợp. Thiếu luôn cả phương pháp và kỹ thuật đấu tranh. Thiếu "hồn lãnh đạo"! Ngược lại phe CS đã có ngay một pho sách đầy đủ và phong phú cùng kinh nghiệm được hoạch định sẵn từ "quốc tế CS Lénine-Staline" và Mao Trạch Đông. CSVN chỉ việc dựa vào đấy mà khai thác, áp dụng. Chính sách của CS là cướp của người thành của mình. Phương pháp CS là từng bước nắm chặt những gì đã đoạt được, nhất là "chính quyền" và không bao giờ chia cho ai cả. Thực là điều chẳng đáng dành một thoáng chốc nói ra, song để dễ bề so sánh, xin nhắc vội, sơ lược, về một cái tổ chức sau 1975 có chung những mẫu tự tiền định "H.C.M": Lòng yêu nước sôi nổi ở người dân Việt hải ngoại lại đã là nhược điểm để dẫn đến sự cả nghe, cả tin. Chỉ mới "sơ sơ có thế", thì HCM này đã nhận được cơ man là từ tâm ủng hộ của ngưòi đồng chủng dưới trời tây phương. Huống hồ, ngày xưa - với "bậc thầy" xảo quyệt như HCM kia, toàn dân phải chết là cái chắc. Thôi thì, chỉ còn cách ngậm bồ hòn làm ngọt, tự thầm nhủ an ủi: Khối dân tộc VN ngày nay đã rút tỉa được Một Bài Học Lịch Sử!
Và, bài học ấy nếu không còn cơ hội đem thực hiện, thì ít ra cũng giúp cho người ta có một nhãn quan tìm hiểu, phân định đâu là sự thật và những sự "chẳng thật" trong những cuốn sách viết về đất Việt và lại do người Việt viết ra. Trong chiều hướng suy tư ấy, mời dư luận hãy cùng chúng tôi xét lại tổng quát nội dung cuốn hồi ký chính trị Gọng Kìm Lịch Sử của tác giả Bùi Diễm vừa xuất bản ít tháng qua trên đất Hoa Kỳ và Âu Châu.
Mạc Kinh
Trời Paris vào thượng tuần tháng 3/2001 đầy mưa và gió lạnh. Thời tiết thật xấu. Nhưng có cái lạ, là ngoại cảnh đổi thay thế đó vẫn không mảy may ảnh hưởng đến tâm hồn du khách – mà cứ phải là người khách phương xa Việt Nam kia, nhất lại, đã từng có một thời trẻ trung chôn chân bên dòng sông Seine tình tứ. Vì cứ phải là kẻ giang hồ lữ thứ ấp ủ một tâm sự về nỗi nước tình nhà mới cảm nhận bằng hết niềm rung động man mác trước trời Ba Lê hoa lệ đổi mầu. Cái trẻ ở một thời lãng mạn hay cái lãng mạn còn vấn vương trong buổi hoàng hôn đời người thực là huyền ảo. Như quyện với nhau để rồi hòa tan trong cung đàn thơ mộng ở nhà thơ, nhà nhạc sĩ Cung Trầm Tưởng mãi mơ màng nhớ về Paris muôn thuở. Hoặc, ở một văn tài trí thức Nguyễn Mạnh Tường ngày xa xưa, vào cái đêm người du học sinh ấy giã từ bóng dáng kiều diễm người bạn tình - nàng thiếu nữ đất Ba Lê, để đặt chân xuống con tầu biển vượt trùng dương trở về xứ sở quê hương, lưu luyến thốt lên... Ecoute! viens t’asseoir auprès de moi avec tes yeux de tous les jours... Vâng, cái ánh mắt nhẹ như sương khuya, dung dị có như thế nhưng đã là một trời thương nhớ ray rứt bao la đeo đuổi người ta suốt cuộc đời. Bây giờ hồi tưởng lại, hầu hết bạn đọc và chúng tôi trong nhiều thập niên thăng trầm chìm nổi, từ những buổi thoạt lao mình vào khói lửa chiến chinh ôm mộng dành độc lập giữa mùa thu 1945 thử hỏi còn lại được gì? Có biết bao sự việc đã tan biến trong tiềm thức, không còn muốn nhớ. Song có biết bao sự thật đau đớn chua xót liên quan đến một giai đoạn lịch sử sóng gió nhất, bị phản bội bi thảm nhất của nước nhà – trong quá trình dài vô tận ấy muốn quên lại vẫn khắc khoải, canh cánh bên lòng.
Không phải vì ngẫu nhiên, vì vô tình mà kẻ viết bài mở đầu trang báo hôm nay mượn khóe mắt giai nhân trong đoản thiên tiểu thuyết của nhà khoa bảng đáng thương Nguyễn Mạnh Tường để bàn chuyện nước nhà Việt Nam. Chúng tôi cố tình. Trong sự cố tình ấy, mong được bạn đọc cảm thông và lượng thứ. Vì, tình yêu đất nước về một mặt nào đó cũng ví như tình yêu người đẹp. Nó cứ đến một cách hồn nhiên, thành khẩn, tha thiết. Nó đến từ một rung động ở ánh mắt, ở đáy hồn.
Người bần cố nông Cộng sản VN chiến đấu vì miếng cơm manh áo. Họ muốn đổi đời – từ cuộc sống lam lũ, nghèo hèn ở chốn ao tù nước đọng sang cái cảnh dành đoạt lại của cải, ruộng vườn, sự giàu có trong tay các giai từng mà họ mệnh danh một cách hận thù "giai cấp bóc lột."
Người trí thức, tiểu tư sản VN lại chiến đấu không vì manh áo miếng cơm. Không hằn học, thù hận. Học thức, kiến thức, sự sung túc mở rộng nhãn quan trí tuệ của họ cho phép nhìn xa hơn những gì chỉ quanh quẩn trong bát cơm, chén cháo, manh quần tấm áo vá chằng vá đụp sau lũy tre xanh. Họ có nhiều lãng mạn tính, mơ tưởng một chân trời mở rộng có tiếng nhạc nét họa, văn hóa và văn hiến. Họ ấp ủ một lý tưởng, một hoài bão dành lại chủ quyền cho đất nước, giải thoát cho cả một dân tộc đắm chìm trong họa mất nước. Từ đó có điều kiện vươn lên cho các thế hệ tiếp nối của giống nòi Hồng Lạc, sánh kịp theo trào lưu văn minh ở thế giới bên ngoài.
Thời gian 1945 là khúc quặt lịch sử trăm năm mới có một lần. Chế độ thuộc địa Pháp tan vỡ khắp 3 miền VN. Nhưng rồi, chỉ trong khoảnh khắc, tiếng súng kháng chiến toàn quốc 1946 bùng lên. Nghe theo tiếng gọi Núi Sông, các giới tiểu tư sản trí thức quan lại phú nông sẵn sàng bỏ tất cả cuộc đời riêng để tung mình vào cuộc chiến, bảo vệ nền độc lập phôi thai ấy. Họ chưa nghe, chưa hay biết gì về tiếng gọi xa lạ "Cộng Sản". Họ chấp nhận chiến đấu hy sinh. Và mường tượng cảm nhận – bên cạnh họ có những phần tử vô sản, nghèo khổ, thất học nhưng chất phác, hiền hòa. Chủ thuyết Mác Xít chưa có thì giờ, hoàn cảnh, để làm biến chất tàn nhẫn cái gốc lương thiện ở những người răng đen mã tấu ấy như về sau này. Súng ống, đạn dược nào đã có là bao? Cứ phải có tinh thần thay cho vũ khí. Hàng triệu thanh niên trí thức tiểu tư sản – sinh viên – học sinh đã là động lực chính yếu nhập cuộc, làm đầu tầu cho khối quần chúng chỉ mới có trong tay những chiếc gậy tầm vông.
Máu lửa ngập trời Thăng Long. Họ quyết tử. Họ cứ như một Nguyễn Văn Nhung – người sinh viên Trường Luật, người đã sớm đón nhận lời dặn dò của Liệt sĩ anh hùng Nguyễn Thái Học... "không thành công thì thành nhân"..., người đã bắc thang lên mặt thành cửa bắc Hà nội cầm loa kêu gọi binh lính Pháp buông súng đầu hàng khi cuộc chính biến 9.3.45 Nhật hạ Pháp xẩy ra. Bị gục ngã trước lằn đạn, Nguyễn Văn Nhung đã chính là người Việt nam đầu tiên đổ máu đào cho nền độc lập sau 80 năm mất nước. Đám tang anh ở ngày kế tiếp, theo sau linh cữu là vị hôn thê sắp cưới của anh đã là cả một thiên tình sử lãng mạn cách mạng vô cùng truyền cảm đến toàn giới tuổi trẻ Hà nội lúc bấy giờ. Trước đêm đảo chính một ngày, Nguyễn Văn Nhung và nhà văn Tam Lang Vũ Đình Chí (tác giả thiên phóng sự nổi tiếng "Tôi Kéo Xe" và còn là nhà báo chuyên viết bình luận mà giới cầm bút Bắc Hà cảm mến) được Hiến Binh Nhật bản bí mật mời đi, đến một doanh trại cô lập hoàn toàn, để soạn thảo Lời Hiệu Triệu quốc dân, trước giờ Quân Đội Phù tang nổ súng lật đổ chế độ Bảo hộ Pháp ở VN và trên toàn cõi Đông Dương.
Cùng với nhân dân Miền Nam kháng chiến, đoàn quân thanh thiếu nữ đất Hà thành của Bà Trưng Bà Triệu, của Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Quang Trung... ở lịch sử ngàn xưa, sau những ngày đêm chiến đấu giữa lòng thành phố đã phải rút khỏi thủ đô Hà nội đổ nát, trở về bao vây các thị xã Miền Bắc đặt trong gọng kìm của quân đội viễn chinh Pháp vừa trở lại tái chiếm VN. Toàn bộ chính phủ trung ương tháo chạy lên Cao Bằng Lạng Sơn Thái Nguyên (Việt Bắc) ẩn nơi rừng núi trùng trùng điệp điệp. Cơ sở kháng chiến vùng đồng bằng vội vã được thiết lập, dưới danh xưng Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Liên Khu III (gồm các tỉnh Hà Đông, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Kiến An, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Phòng và thành phố Hà nội). Tất cả hàng ngũ tiểu tư sản, trí thức, công chức quan lại đổ xô về quy tụ, tiếp tục kháng chiến trong khẩu hiệu "Toàn Dân Kháng Chiến". Không một ai thắc mắc, hoài nghi về cơ cấu lãnh đạo. Chỉ có kháng chiến với kháng chiến. Không có Cộng sản lộ diện, lộ diện về đường lối vô sản. Đảng viên CS nếu có, hầu như chỉ mới là một nét vạch nhỏ giữa những đường chỉ tay trong lòng một bàn tay. Họ cũng chỉ mới nhiều-nhiều hơn một chút, đông-đông hơn một chút so với ngày đầu tiên phong trào Việt Minh xuất hiện, hay lúc đoàn Giải Phóng Quân CS công khai ra mắt ở Hang Pác Bó đếm vừa đủ một tiểu đội súng dài hơn người với tướng Võ Nguyên Giáp sau này, cùng chụp chung bức ảnh xuất phát kia.
Từ 1946 đến 1954, Liên Khu III vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương. Người đi chiến đấu cứ chiến đấu. Người công tác ở phía sau, đôi khi sát liền mặt trận, có trăm công ngàn việc lớn nhỏ - cứ tận tình đóng góp với tất cả khả năng, sáng kiến, trong kỷ luật tự giác tuyệt đối. LK III lúc bấy giờ hầu như là vùng đất Hà thành ngàn năm văn vật thu nhỏ lại, hội tụ hằng hà sa số các nam nữ thanh niên trung lưu, thanh lịch, từng có một thời nổi tiếng là những dân "cậu", những "công tử", những nàng kiều nữ tóc thề xinh tươi của những con đường thơ mộng Cổ Ngư, Quan Thánh, của những đường phố Hàng Đào, Hàng Ngang, Hàng Than, Hàng Bạc... trước ngày tiếng súng bùng nổ. Hay, những chàng trai túa ra từ các trường Bưởi, Thăng Long, Gia Long, Pasteur... của Hà nội thuở nào. Nhung-y chỉ là bộ đồ kaki hoặc chiếc áo trấn thủ khoác trên người với chiếc ba-lô tài sản độc nhất quàng sau lưng. Họ lao mình đi chiến đấu thế đó! Học đánh giặc là điều không mấy khó. Đụng độ, xáp trận đôi ba lần rồi quen. Miễn cứ có tinh thần. Và nào có phải là tinh thần Vô sản đâu? Tất cả, hầu như chỉ mới có duy nhất một tinh thần... lãng mạn: Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt... Xếp bút nghiên theo việc đao cung...
Đấy, từng từng lớp lớp nhân dân đất Việt, ngoài Bắc cũng như trong Nam, khởi thuỷ đứng lên đánh ngoại xâm, xây dựng nền độc lập là vậy đó. Đoàn quân Việt Minh đâu? Cộng sản đâu? Việt cộng là đâu? Trong hàng ngũ trí thức, tiểu tư sản ở LK III sẵn sàng đem đoạn đời cá nhân cho công cuộc dành độc lập gồm khá nhiều các nhà luật học, bác sĩ, công chức, quan lại, thương gia, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà nhạc sĩ như Bùi Hữu Khách, Vũ Tiến Tuân, Vũ Văn Huyền, Bùi Hòe Thực, Nguyễn Duy Quang, Lại Tư, Vũ Quốc Thông, Vũ Quốc Thúc, Đặng Mộng Ruẩn, Nguyễn Mạnh Tường, Vũ Tuân Sán, Vũ Tuấn San, Trần Chánh Thành, Bùi Suyến, Đỗ Xuân Sảng, Lê Văn Chất, Đoàn Kiểm, Phạm Hữu Chương, Trần Hữu Tước, Hoàng Văn Chí, Hà Thượng Nhân, Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tchya Đái Đức Tuấn, Hoàng Nguyên, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Mai Văn Hàm, Phạm Quang Khai, Lê Khải Trạch, Vũ Bằng, Quang Dũng, Hữu Loan, Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Lương Hàm Châu, Văn Cao... Kể sao cho xiết? Nhưng chỉ biết rằng, về sau này, khi chiếc mặt nạ CS rớt xuống, 9/10 trong bọn họ đã bằng mọi cách tìm đường ly biệt CS, trở về vùng quốc gia mới vừa tái thành lập trong tay Cựu hoàng Bảo Đại. Nói cho cùng, dẫu có những điều đáng trách, nhà vua thoái vị ấy vẫn có cái giá trị mà lịch sử VN không thể gạt bỏ sang bên được. Nếu ông không tái xuất hiện vào cuối thập niên 49-50, Việt Nam đã nằm gọn trong tay VM Cộng sản để chẳng bao giờ có được hai thời đệ nhất đệ nhị Cộng Hòa ở Miền Nam. Và, cho dù nước mất vẫn còn lưu lại một huyền thoại "quốc gia" để ngày nay hàng ngũ người Việt có tinh thần dân tộc nói chung đang chuyển mình mạnh mẽ vào quỹ đạo tự do dân chủ, phục kích ngày CS tan rã sụp đổ trên giải đất quê hương đã có quá nhiều đau thương. Có cơ hội thì nói nhiều viết nhiều, bằng không, tối thiểu phải nhắc đến chút ít về một giai đoạn lịch sử mở đầu cuộc kháng chiến, để thật giản dị và mau chóng chứng minh sự hy sinh xương máu, sự đóng góp lớn lao của quốc dân VN và rồi bị người CS trở mặt, đi theo Nga cộng, Tầu cộng cướp công, tàn sát người đồng chủng không tiếc thương. Tàn sát ngay trong phong trào đấu tố miền Bắc. Tàn sát không nương tay mọi giới quốc dân Miền Nam vào ngày tháng sau 75. Và đến tận bây giờ - đọa đầy tuyệt đại đa số người dân ba miền Trung Nam Bắc trong nghèo túng đói rách triền miên. Để đúc kết một nét nhìn chung cuộc về cái thắng cái thua giữa thực chất quốc gia với cộng sản trên đất nước chúng ta, tưởng phải thẳng thắn nhìn nhận, ở giai đoạn quá khứ, hàng ngũ dân tộc có tất cả thế thượng phong, hội đủ điều kiện tốt đẹp - kể cả tinh thần vì nước sau ngày chủ quyền bảo hộ Pháp tan biến. Nhưng đáng tiếc chúng ta không có kinh nghiệm tổ chức, rời rạc lỏng lẻo trong kết hợp. Thiếu luôn cả phương pháp và kỹ thuật đấu tranh. Thiếu "hồn lãnh đạo"! Ngược lại phe CS đã có ngay một pho sách đầy đủ và phong phú cùng kinh nghiệm được hoạch định sẵn từ "quốc tế CS Lénine-Staline" và Mao Trạch Đông. CSVN chỉ việc dựa vào đấy mà khai thác, áp dụng. Chính sách của CS là cướp của người thành của mình. Phương pháp CS là từng bước nắm chặt những gì đã đoạt được, nhất là "chính quyền" và không bao giờ chia cho ai cả. Thực là điều chẳng đáng dành một thoáng chốc nói ra, song để dễ bề so sánh, xin nhắc vội, sơ lược, về một cái tổ chức sau 1975 có chung những mẫu tự tiền định "H.C.M": Lòng yêu nước sôi nổi ở người dân Việt hải ngoại lại đã là nhược điểm để dẫn đến sự cả nghe, cả tin. Chỉ mới "sơ sơ có thế", thì HCM này đã nhận được cơ man là từ tâm ủng hộ của ngưòi đồng chủng dưới trời tây phương. Huống hồ, ngày xưa - với "bậc thầy" xảo quyệt như HCM kia, toàn dân phải chết là cái chắc. Thôi thì, chỉ còn cách ngậm bồ hòn làm ngọt, tự thầm nhủ an ủi: Khối dân tộc VN ngày nay đã rút tỉa được Một Bài Học Lịch Sử!
Và, bài học ấy nếu không còn cơ hội đem thực hiện, thì ít ra cũng giúp cho người ta có một nhãn quan tìm hiểu, phân định đâu là sự thật và những sự "chẳng thật" trong những cuốn sách viết về đất Việt và lại do người Việt viết ra. Trong chiều hướng suy tư ấy, mời dư luận hãy cùng chúng tôi xét lại tổng quát nội dung cuốn hồi ký chính trị Gọng Kìm Lịch Sử của tác giả Bùi Diễm vừa xuất bản ít tháng qua trên đất Hoa Kỳ và Âu Châu.