Post by admin on May 29, 2009 14:07:00 GMT -5
Lịch Sử 29-05-2009
Trịnh Công Sơn nằm vùng (I)
DCVOnline: ‒ “Mỗi thế hệ đều cố gắng tạo khái niệm riêng của mình về lịch sử. Và rồi mỗi thế hệ đều viết lại lịch sử với các tham khảo trong các điều kiện ở tầng cao nhất của thời đại đó.” ‒ Frederick Jackson Turner.
“Chỉ có những người không ra gì mới không quan tâm đến lịch sử của mình.” ‒ Sigmund Freud.
“Lịch sử là lời chứng thực của người trong cuộc về những sự kiện đã qua; nó làm sáng tỏ thực tế, tiếp sinh khí cho ký ức, dẫn lối cho cuộc sống đời thường và đem lại cho chúng ta những thông tin của quá khứ.” ‒ Marcus Tullius Cicero.
Là trưởng cơ quan an ninh tình báo Thừa Thiên–Huế từ 1966 đến đầu 1975 ‒ không bằng tài liệu hay chứng từ ‒ tác giả ghi lại những sự kiện biết được bằng chính những trải nghiệm của bản thân và những nhận định của riêng ông về một giai đoạn ngắn của lịch sử Việt Nam và về một nhạc sĩ tên tuổi của miền Nam lúc đó như một đóng góp nhỏ vào lịch sử truyền khẩu (oral history) về con người và thời đại.
DCVOnline xin mời bạn đọc theo dõi bài viết của tác giả Liên Thành, cựu Thiếu tá Cảnh sát Quốc Gia Việt Nam thời Đệ nhị Cộng Hoà Việt Nam.
Liên Thành
Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng
Trong mấy tuần qua, tôi có đọc 2 bài của Trịnh Cung, tức Nguyễn Văn Liễu, và của Bằng Phong Đặng Văn Âu, viết về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS). Trịnh Cung viết “Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị.” Bằng Phong Đặng Văn Âu viết “Nhạc Sĩ Trinh Công Sơn. Một Thiên tài đồng lõa với tội ác.”
Hai tác giả với hai bài viết nói về TCS, nội dung khác nhau, nhưng cả hai đều chỉ đưa ra một vài dữ kiện, hoặc khách quan, hoặc chủ quan, qua tình bạn của họ đối với nhạc sĩ TCS. Để rồi, hai tác giả đều không kết luận, hoặc là không muốn kết luận, một điều quan trọng: Trịnh Công Sơn bên nào? Bên này? Bên kia? Hay nói trắng ra, Trịnh Công Sơn là ai, quốc gia hay cộng sản?
Đã bao năm qua, kể từ sau 1975, và mãi đến những ngày gần đây, người viết vẫn giữ thái độ im lặng. Nhưng sau khi đọc xong bài của Trịnh Cung và của Bằng Phong Đặng Văn Âu, tôi quyết định lên tiếng về những gì, vì lý do nghề nghiệp, tôi đã nắm rất tường tận về TCS. Lý do cũng đơn giản, bạn đọc sẽ hiểu được khi đọc xong bài này.
Đã có nhiều ca ngợi, nhiều tranh cãi, lý luận, cuối cùng, có lẽ đã đến lúc sự thật về con người Trịnh Công Sơn cần được trình bày tường tận, rõ ràng.
Trong bối cảnh mà đất nước nghiêng ngả tang thương vì nhiều vấn nạn, trước thảm hoạ xâm lăng cuả toàn bộ lực lượng cộng sản (CS) quốc tế, đặc biệt là Trung Cộng, qua bàn tay CS Hà Nội, Trịnh Công Sơn đã cống hiến gì cho quốc gia?
Là trưởng cơ quan an ninh tình báo Thừa Thiên–Huế từ 1966 đến đầu 1975, tôi giữ trách nhiệm chính về vấn đề gìn giữ an ninh trật tự, bảo vệ sinh mạng và tài sản cho đồng bào trong tỉnh. Và trên hết mọi chuyện, là đối phó với cục Tình Báo chiến lược Bắc Việt, lồng một mạng lưới tinh vi và dày đặc CS nằm vùng tại Huế. Thật không sai khi nói Huế là một ổ nằm vùng. Do vậy, có lẽ chúng tôi có bổn phận phải biết rất kỹ về TCS và toàn bộ những phần tử CS khác hoạt động tại đây.
Tôi biết TCS và nhóm người nối giáo cho giặc này dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tôi biết họ từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, từ thói quen đến phẩm hạnh, đến tiểu sử, đến gia đình, thậm chí, nếu cần, thì cả gia phả, v.v... Tôi có trách nhiệm phải biết. Trong bài này, tôi sẽ, một cách thẳng thắng, trình bày về những sự việc, thông tin, dữ kiện mà chúng tôi có được về TCS và nhóm nằm vùng. Người viết hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ cho lịch sử, và cho những ai quan tâm đến vấn đề TCS, cũng như các hoạt động chung của ông và các phần tử nằm vùng khác tại Huế.
Dù yêu, dù ghét, dù hận thù, dù ngưỡng mộ tôn sùng, dù căm phẫn... những thông tin gốc từ những trải nghiệm thực của nhân chứng sống là điều cần thiết để quý bạn đọc có thể tự mình thẩm định lại một cách sòng phẳng về con người TCS. Chúng ta, dù thế nào đi nữa, không ai muốn bị bịp cả!
Trịnh công Sơn bên nào – Bên này, hay bên kia? Quốc gia, Cộng sản?
Trước khi xác nhận cũng như công bố nhiều chuyện liên quan đến TCS, xin được phác hoạ lại tình hình an ninh và nội chính của Thừa Thiên–Huế, sau ngày 01/11/1963.
Sau đảo chánh, ảnh hưởng và thế lực chính trị của khối Phật giáo (PG) Ấn Quang, và đặc biệt của Thích Trí Quang, và Thích Đôn Hậu đối với chính quyền trung ương cũng như địa phương, và trong hàng ngũ tín đồ Phật giáo tại miền trung, nhất là tại Huế, quá manh!
TT Thích Trí Quang: Biểu tượng của Phật giáo 1963-1968
Nguồn: NVL
--------------------------------------------------------------------------------
Chùa Từ Đàm trở thành Dinh Độc Lập II. Đó là trung tâm quyền lực thật sự ở miền Trung. Tại miền Trung, chùa Từ Đàm trở thành dù che chắn cho mọi hoạt động của các cơ quan dân vận, tôn giáo vận, trí thức vận, tổ chức học sinh, sinh viên “Giải Phóng” thành phố thuộc Đại Học Huế và các trường Trung học. Tất cả đều nằm dưới sự điều động của tỉnh ủy Thừa Thiên–Huế và Thành ủy Việt cộng.
Hầu như không có một cơ quan an ninh nào của chính phủ VNCH dám đụng vào các ổ nằm vùng gần như công khai này. Nếu đụng đến họ, sẽ bị lu loa là “tàn dư Mật Vụ Nhu Diệm”, là “đàn áp Phật Giáo”, là tàn đời! Mọi tổ chức, mọi cơ sở nội thành của Việt Cộng được được hoạt động gần như bán công khai. Tất cả dưới sự điều động của Trung Tá điệp Viên Hoàng Kim Loan, thuộc Cục Tình báo Chiến lược Bắc Việt. Người trung gian liên lạc là Nguyễn Khắc Từ, bí thư thân tín của Thích Trí Quang.
Sau 1975, Nguyễn Khắc Từ lộ diện là Đại tá Việt Cộng. Hỗ trợ tận tình cho Hoàng Kim Loan là Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu.
Có thể nói từ 1963 đến 1966, là thời gian rối loạn miền Trung có nguy cơ đưa đến tình trạng vô chính phủ do ông Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu cầm đầu. Trong ba năm đó, miền Trung, nhất là Huế được coi là “căn cứ địa” của những sinh hoạt chính trị khuynh loát, phá rối có thể đưa đến những hậu quả chính trị có nguy hại đến an ninh của chính thể VNCH. Các ông Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu và các “thầy tranh đấu” của họ, đã vô hiệu hóa các hoạt động của các cơ quan tình báo của chính phủ tại nhiều nơi, nhất là tại Thừa Thiên– Huế.
Những hoạt động chính trị đó đã mở đường cho CS tự do ra vào, đồng thời báo hiệu nguy cơ một sự suy sụp của chính thể VNCH.
Trước 1963, hoạt động mật vụ của VNCH khá hữu hiệu. Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung (ĐCTĐNMT) lúc bấy giờ do ông Dương văn Hiếu làm trưởng đoàn. Nhưng, người chỉ huy thật sự bên trong lại là ông Ngô đình Cẩn. Ông là một người có năng khiếu thiên phú về tình báo, dù chưa hề qua một trường lớp đào tạo chính quy nào. Có thể nói đây là một năng khiếu bẩm sinh kỳ lạ của ông, đặc biệt là năng khiếu chống du kích chiến và chống dấy loạn trong thành phố. Cơ quan tình báo tinh nhuệ này đã phá vỡ và bắt giữ hầu như toàn bộ các cán bộ tình báo cao cấp của Bắc Việt gởi vào miền Nam. ĐCTĐNMT đã bẻ gẫy mọi mưu toan của Hà Nội về chính trị cũng như quân sự, nhất là mục đích phá rối chính trị để làm suy sụp miền Nam.
Tài năng và công lao rất lớn của ông Ngô đình Cẩn đã đực đối thủ xác nhận. Đại tướng Quân đội Nhân dân, Văn Tiến Dũng, nói “Dưới thời Diệm, ta đã gởi vào Miền Nam 60 ngàn cán bộ, cuối cùng chỉ còn 5 ngàn, như vậy là thiệt hại đến 90%.”
Sau khi Tổng thống Diệm bị đảo chánh bị đám tướng lãnh phản loạn – bất chấp luật pháp, bất chấp kỷ cương đất nước, bất chấp đạo lý, bất chấp tình người – giết thì ông em út cũng bị cùng chung số phận! Toà án gì đây? Luật pháp gì đây? Luật của ông Thích Trí Quang? Luật của ông Thích Đôn Hậu? Luật của cái gọi là “Phật Giáo đấu tranh”? Tội gì thưa quý bạn đọc? Tội bắt nhiều CS! Ông Dương văn Hiếu, nhờ có ông Cẩn thế mạng rồi, nên “quý thầy” khó làm áp lực thanh toán. Sau đó, cũng nhờ “đế quốc Mỹ xâm lược” can thiệp, nên chỉ bị tù.
Một cơ quan tình báo tinh nhuệ, đặc biệt, và bí mật khác, do ông Phan Quang Đông chỉ huy cũng bị xóa sổ. Cơ quan này hoàn toàn chỉ liên quan đến những điệp vụ quan trọng ngoài Bắc. Dù không hề dính dáng gì đến chuyện đàn áp Phật Giáo họ cũng bị ông Thích Trí Quang vu vạ rồi giết. Theo lệnh Hà Nội, ông Thích Trí Quang áp lực, yêu cầu chính phủ đương nhiệm, qua trung gian Nguyễn Chánh Thi, xử tử hình Phan Quang Đông, một viên chức chỉ huy tình báo tài ba xuất sắc, với tội “Mật vụ Nhu Diệm”!
Cơ quan tình báo thứ 3 hoạt đông rất hữu hiệu tại Huế, là Ty Công an Thừa Thiên của chính phủ VNCH. Số phận cơ quan này cũng bi thảm không kém. Ông Lê Văn Dư Trưởng ty bị bắt giữ.
Hầu hết nhân viên phụ trách tình báo của 3 cơ quan này, hoặc bị sa thải, hoặc bị bắt, hoặc bị thuyên chuyển khỏi các chức vụ trọng yếu. Tất cả cũng với tội danh tương tự: “Mật vụ Nhu–Diệm, đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy, v.v…”
Sau khi loại trừ sạch các thành phần “Mật vụ Nhu Diệm ác ôn”, các thầy liền thay vào cái bình cũ là cơ quan tình báo của VNCH, loại rượu mới do quý thầy bào chế ra, đó là rượu “nằm vùng”!
1. Nguyên Quận trưởng Cảnh sát Nguyễn văn Cán, một nhân viên tình báo rất quan trọng của Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan, được phong làm trưởng ty CSQG thị xã Huế. Ngoài ra, Nguyễn văn Cán còn là cơ sở nuôi dưỡng tên Phan Nam, Thành ủy Huế, đặc trách an ninh của cơ quan thành ủy VC; Phan Nam trú ngụ thường xuyên trong nhà của Nguyễn văn Cán. Sau 1975 Phan Nam làm Chủ Tịch Ủy ban nhân dân thành phố Huế.
2. Trần văn Cư, đệ tử thân tín của ông Thích Đôn Hậu, được phong làm trưởng ty Công An Thừa Thiên. Trần văn Cư chính là người thẩm vấn thụ lý nội vụ ông Phan Quang Đông. Thừa lệnh CS Hà Nội, Thích Đôn Hậu, và Thích Trí Quang ngầm ra lệnh cho chính quyền, xử bắn Phan Quang Đông tại sân vận động Tự Do, thuộc quận III thị xã Huế, với tội danh, “Mật vụ Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo thủ tiêu Quí thầy, v.v…”
Đau đớn và cười ra nước mắt, là từ 1966 đến 1968, hai ty Cảnh Sát lại giao cho hai tay nội tuyến Việt Cộng. Ty CSQG tỉnh Quảng Trị có Trưởng ty lại là Đại Úy Lê Cảnh Thâm, làm việc cho cơ quan Quân Báo của VC. Ty CSQG Thừa Thiên–Huế với Trưởng ty là Đoàn Công Lập, nhân viên thuộc cấp của Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan.
Khoảng thời gian dài này, 1966–1968, là thời hoàng kim của các hoạt động CS nằm vùng. Chỉ cần dán nhãn hiệu “Mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy” cho kẻ thù, là mọi việc xong ngay! Cả Miền Nam hoang mang, lo sợ, điêu đứng; biết bao thân phận bị vùi dập, cũng vì cái nón “mật vụ” này.
Liên Thành (circa 1970s)
Nguồn: bietdongquan.com
--------------------------------------------------------------------------------
Sau khi 3 cơ quan tình báo quan trọng và hữu hiệu này bị “các thầy” xóa sổ, cơ sở Việt Cộng trong thành phố Huế sinh phát triển tự do sôi nẩy nở như rạ, như nấm. Chính quyền tuy biết, nhưng không dám đụng đến, vì sợ đụng chạm tới Phật Giáo, sợ luôn cái nón “Mật thám Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo”. Quý thầy đã thật sự thành công trong việc tự đồng hóa “các thầy” với “Phật giáo” thuần tuý. Viết đến đây tôi không khỏi không bật cười. Tương tự như vậy, trên 60 năm nay, đảng CSVN cũng đã tự đồng hóa họ với tổ quốc Việt Nam! CSVN cũng đã thành công không nhỏ với người trong nước, nhất là với đồng bào miền Bắc! Quý thầy cũng thành công – thành công với một số lớn phật tử miền Trung!
Đại đa số các tổ chức CS như thế và hầu hết những kẻ tham gia trong các tổ chức đó, đều đã được ông Thích Trí Quang, Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Kim Loan bọc cho cái vỏ tôn giáo. Tỷ dụ như Liên đoàn Học sinh, Sinh viên Phật tử, công chức Phật Tử, Quân nhân Phật tử, Cảnh sát Phật tử, Tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba, v.v...
Trong thành phố mọc lên nhiều địa điểm hội họp, tiếp xúc, của nhiều trí thức, giáo sư, sinh viên, học sinh, hoạt động cho các tổ chức trí thức vận, tôn giáo vận của Thành ủy Huế. Những địa điểm nầy trong danh từ chuyên môn chúng tối gọi là những “căn cứ lõm” của địch, tỷ như:
(a) Quán Café “Bạn Tôi” – Ở đường Đào duy Từ, tại vùng Đập Đá thuộc quận III thị xã Huế. Lê văn Sâm, SV luật khoa, thành lập và làm chủ quán. Có Ngô Kha, vợ chồng giáo sư Đỗ Long Vân ở Pháp về, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn hữu Ngô, nhà văn Túy Hồng, Phan Duy Nhân, Trần Quang Long.
(b) Lực lượng Giáo chức tranh đấu tại Huế – Chủ tịch, kiêm chủ bút diễn đàn báo Dân là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phó chủ tịch là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm. Ngoài ra còn có tờ Sinh Viên Huế của tổng hội SV Huế, và tờ Lập Trường của nhóm trí thức đại học Huế, do giáo sư Tôn Thất Hanh làm chủ nhiệm. Chủ trương Chống lại cái gọi là “Chế độ Diệm mà không Diệm”. Quý vị độc giả, ai là người uyên thâm, xin hãy diễn giải và dẫn chứng rành rẽ, cụ thể, chứng minh dùm tôi, cụm từ “Diệm mà không Diệm” này! Tôi chịu thua. Những lộng ngôn loại này là do ai làm ra? Ai sáng tác? Ai nghe theo? Mục đích là gì nếu không để phá nát tất cả các chính quyền miền Nam, bất kể là ai lãnh đạo. Tổng thống Ngô đình Diệm đã bị họ gián tiếp giết, phong cho danh hiệu mang đầy tính tội ác, rùng rợn, răn đe, “Mỹ Diệm”, “Mật vụ Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy”. Đất nước sau đó tang thương đổ vỡ, chính trị rối loạn, nhưng vẫn chưa vừa lòng, họ thừa thắng xông tới. Họ đe doạ các chính quyền kế tiếp khác bằng khẩu hiệu mang tính bình mới rượu cũ, “ Diệm mà không Diệm”. Chỉ đơn giản vậy, nhưng buồn cười thay, một loạt các chính quyền sau đó đều xếp re, không dám hó hé với nhóm “Phật Giáo Đấu Tranh” này.
(c) Tuyệt Tình Cốc – Nằm tại hẽm Âm Hồn thuộc quận I thị xã Huế. Nguyên là ngôi nhà của cha mẹ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Sau khi hai ông bà dời nhà ra gần cửa Đông Ba, anh em Tường, Phan biến nơi nầy thành trung tâm hội họp hoạt động của đám sinh viên, trí thức cơ sở thành ủy VC Huế.
Tuyệt tình cốc là một ngôi nhà tranh, trong một khu vườn nhỏ có cây ngọc lan. Đến mùa hoa nở, hương thơm ngát.
Nguyễn Đắc Xuân (2009)
Nguồn: news.zing.vn
--------------------------------------------------------------------------------
Nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan đã đặt tên cho cây ngọc lan này là “Cây hoa tình”, và ngôi nhà kia là “Tuyệt tình cốc”,vay mượn trong tác phẩm kiếm hiệp Thần điêu đại hiệp của tác giả Kim Dung. Tuyệt tình cốc thường xuyên do anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì sau nầy còn có hoạ sĩ Đinh Cường. Trịnh Công Sơn, nữ văn sĩ Túy Hồng, Ngô Kha, Trần vàng Sao, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Xuân Kiêm, chủ tịch tổng hội sinh viên Huế, cũng đã xuất hiện nhiều lần tại đây. Hầu hết đám này là cơ sở sinh viên và trí thức vận của thành ủy Huế. Tuyệt tình Cốc cũng là nơi xuất bản tờ báo Việt Nam Việt Nam của nhóm kể trên, trong khoảng thời gian phong trào tranh đấu Miền Trung của Thích Trí Quang, giai đoạn cao điểm vào đầu hè 1966.
(d) Căn phòng của Lê Văn Hảo – Giáo Sư nhân chủng học, Đại Học Huế cũng là nơi Hoàng phủ Ngọc Tường và đám sinh viên hoạt động cho Thành ủy VC dùng làm nơi viết và xuất bản báo chí.
Vô số những trí thức, học sinh, sinh viên hoạt động cho VC tại thành phố Huế. Họ tham gia sách động, trong vai trò lực lượng quần chúng: Cách mạng đấu tranh của biến cố 1963, rồi cuộc tranh đấu bạo động 1966. Nhìn biết những điều này không khỏi giật mình tự hỏi, “Huế không mất vào tay CS trước Mậu Thân 1968 thì quả thật là một phép lạ!”
Hãy đọc qua danh sách ổ Việt Cộng nằm vùng dưới đây.
...(Còn tiếp)
Trịnh Công Sơn nằm vùng (I)
DCVOnline: ‒ “Mỗi thế hệ đều cố gắng tạo khái niệm riêng của mình về lịch sử. Và rồi mỗi thế hệ đều viết lại lịch sử với các tham khảo trong các điều kiện ở tầng cao nhất của thời đại đó.” ‒ Frederick Jackson Turner.
“Chỉ có những người không ra gì mới không quan tâm đến lịch sử của mình.” ‒ Sigmund Freud.
“Lịch sử là lời chứng thực của người trong cuộc về những sự kiện đã qua; nó làm sáng tỏ thực tế, tiếp sinh khí cho ký ức, dẫn lối cho cuộc sống đời thường và đem lại cho chúng ta những thông tin của quá khứ.” ‒ Marcus Tullius Cicero.
Là trưởng cơ quan an ninh tình báo Thừa Thiên–Huế từ 1966 đến đầu 1975 ‒ không bằng tài liệu hay chứng từ ‒ tác giả ghi lại những sự kiện biết được bằng chính những trải nghiệm của bản thân và những nhận định của riêng ông về một giai đoạn ngắn của lịch sử Việt Nam và về một nhạc sĩ tên tuổi của miền Nam lúc đó như một đóng góp nhỏ vào lịch sử truyền khẩu (oral history) về con người và thời đại.
DCVOnline xin mời bạn đọc theo dõi bài viết của tác giả Liên Thành, cựu Thiếu tá Cảnh sát Quốc Gia Việt Nam thời Đệ nhị Cộng Hoà Việt Nam.
Liên Thành
Trịnh Công Sơn và những hoạt động nằm vùng
Trong mấy tuần qua, tôi có đọc 2 bài của Trịnh Cung, tức Nguyễn Văn Liễu, và của Bằng Phong Đặng Văn Âu, viết về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS). Trịnh Cung viết “Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị.” Bằng Phong Đặng Văn Âu viết “Nhạc Sĩ Trinh Công Sơn. Một Thiên tài đồng lõa với tội ác.”
Hai tác giả với hai bài viết nói về TCS, nội dung khác nhau, nhưng cả hai đều chỉ đưa ra một vài dữ kiện, hoặc khách quan, hoặc chủ quan, qua tình bạn của họ đối với nhạc sĩ TCS. Để rồi, hai tác giả đều không kết luận, hoặc là không muốn kết luận, một điều quan trọng: Trịnh Công Sơn bên nào? Bên này? Bên kia? Hay nói trắng ra, Trịnh Công Sơn là ai, quốc gia hay cộng sản?
Đã bao năm qua, kể từ sau 1975, và mãi đến những ngày gần đây, người viết vẫn giữ thái độ im lặng. Nhưng sau khi đọc xong bài của Trịnh Cung và của Bằng Phong Đặng Văn Âu, tôi quyết định lên tiếng về những gì, vì lý do nghề nghiệp, tôi đã nắm rất tường tận về TCS. Lý do cũng đơn giản, bạn đọc sẽ hiểu được khi đọc xong bài này.
Đã có nhiều ca ngợi, nhiều tranh cãi, lý luận, cuối cùng, có lẽ đã đến lúc sự thật về con người Trịnh Công Sơn cần được trình bày tường tận, rõ ràng.
Trong bối cảnh mà đất nước nghiêng ngả tang thương vì nhiều vấn nạn, trước thảm hoạ xâm lăng cuả toàn bộ lực lượng cộng sản (CS) quốc tế, đặc biệt là Trung Cộng, qua bàn tay CS Hà Nội, Trịnh Công Sơn đã cống hiến gì cho quốc gia?
Là trưởng cơ quan an ninh tình báo Thừa Thiên–Huế từ 1966 đến đầu 1975, tôi giữ trách nhiệm chính về vấn đề gìn giữ an ninh trật tự, bảo vệ sinh mạng và tài sản cho đồng bào trong tỉnh. Và trên hết mọi chuyện, là đối phó với cục Tình Báo chiến lược Bắc Việt, lồng một mạng lưới tinh vi và dày đặc CS nằm vùng tại Huế. Thật không sai khi nói Huế là một ổ nằm vùng. Do vậy, có lẽ chúng tôi có bổn phận phải biết rất kỹ về TCS và toàn bộ những phần tử CS khác hoạt động tại đây.
Tôi biết TCS và nhóm người nối giáo cho giặc này dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tôi biết họ từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, từ thói quen đến phẩm hạnh, đến tiểu sử, đến gia đình, thậm chí, nếu cần, thì cả gia phả, v.v... Tôi có trách nhiệm phải biết. Trong bài này, tôi sẽ, một cách thẳng thắng, trình bày về những sự việc, thông tin, dữ kiện mà chúng tôi có được về TCS và nhóm nằm vùng. Người viết hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ cho lịch sử, và cho những ai quan tâm đến vấn đề TCS, cũng như các hoạt động chung của ông và các phần tử nằm vùng khác tại Huế.
Dù yêu, dù ghét, dù hận thù, dù ngưỡng mộ tôn sùng, dù căm phẫn... những thông tin gốc từ những trải nghiệm thực của nhân chứng sống là điều cần thiết để quý bạn đọc có thể tự mình thẩm định lại một cách sòng phẳng về con người TCS. Chúng ta, dù thế nào đi nữa, không ai muốn bị bịp cả!
Trịnh công Sơn bên nào – Bên này, hay bên kia? Quốc gia, Cộng sản?
Trước khi xác nhận cũng như công bố nhiều chuyện liên quan đến TCS, xin được phác hoạ lại tình hình an ninh và nội chính của Thừa Thiên–Huế, sau ngày 01/11/1963.
Sau đảo chánh, ảnh hưởng và thế lực chính trị của khối Phật giáo (PG) Ấn Quang, và đặc biệt của Thích Trí Quang, và Thích Đôn Hậu đối với chính quyền trung ương cũng như địa phương, và trong hàng ngũ tín đồ Phật giáo tại miền trung, nhất là tại Huế, quá manh!
TT Thích Trí Quang: Biểu tượng của Phật giáo 1963-1968
Nguồn: NVL
--------------------------------------------------------------------------------
Chùa Từ Đàm trở thành Dinh Độc Lập II. Đó là trung tâm quyền lực thật sự ở miền Trung. Tại miền Trung, chùa Từ Đàm trở thành dù che chắn cho mọi hoạt động của các cơ quan dân vận, tôn giáo vận, trí thức vận, tổ chức học sinh, sinh viên “Giải Phóng” thành phố thuộc Đại Học Huế và các trường Trung học. Tất cả đều nằm dưới sự điều động của tỉnh ủy Thừa Thiên–Huế và Thành ủy Việt cộng.
Hầu như không có một cơ quan an ninh nào của chính phủ VNCH dám đụng vào các ổ nằm vùng gần như công khai này. Nếu đụng đến họ, sẽ bị lu loa là “tàn dư Mật Vụ Nhu Diệm”, là “đàn áp Phật Giáo”, là tàn đời! Mọi tổ chức, mọi cơ sở nội thành của Việt Cộng được được hoạt động gần như bán công khai. Tất cả dưới sự điều động của Trung Tá điệp Viên Hoàng Kim Loan, thuộc Cục Tình báo Chiến lược Bắc Việt. Người trung gian liên lạc là Nguyễn Khắc Từ, bí thư thân tín của Thích Trí Quang.
Sau 1975, Nguyễn Khắc Từ lộ diện là Đại tá Việt Cộng. Hỗ trợ tận tình cho Hoàng Kim Loan là Thích Trí Quang và Thích Đôn Hậu.
Có thể nói từ 1963 đến 1966, là thời gian rối loạn miền Trung có nguy cơ đưa đến tình trạng vô chính phủ do ông Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu cầm đầu. Trong ba năm đó, miền Trung, nhất là Huế được coi là “căn cứ địa” của những sinh hoạt chính trị khuynh loát, phá rối có thể đưa đến những hậu quả chính trị có nguy hại đến an ninh của chính thể VNCH. Các ông Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu và các “thầy tranh đấu” của họ, đã vô hiệu hóa các hoạt động của các cơ quan tình báo của chính phủ tại nhiều nơi, nhất là tại Thừa Thiên– Huế.
Những hoạt động chính trị đó đã mở đường cho CS tự do ra vào, đồng thời báo hiệu nguy cơ một sự suy sụp của chính thể VNCH.
Trước 1963, hoạt động mật vụ của VNCH khá hữu hiệu. Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung (ĐCTĐNMT) lúc bấy giờ do ông Dương văn Hiếu làm trưởng đoàn. Nhưng, người chỉ huy thật sự bên trong lại là ông Ngô đình Cẩn. Ông là một người có năng khiếu thiên phú về tình báo, dù chưa hề qua một trường lớp đào tạo chính quy nào. Có thể nói đây là một năng khiếu bẩm sinh kỳ lạ của ông, đặc biệt là năng khiếu chống du kích chiến và chống dấy loạn trong thành phố. Cơ quan tình báo tinh nhuệ này đã phá vỡ và bắt giữ hầu như toàn bộ các cán bộ tình báo cao cấp của Bắc Việt gởi vào miền Nam. ĐCTĐNMT đã bẻ gẫy mọi mưu toan của Hà Nội về chính trị cũng như quân sự, nhất là mục đích phá rối chính trị để làm suy sụp miền Nam.
Tài năng và công lao rất lớn của ông Ngô đình Cẩn đã đực đối thủ xác nhận. Đại tướng Quân đội Nhân dân, Văn Tiến Dũng, nói “Dưới thời Diệm, ta đã gởi vào Miền Nam 60 ngàn cán bộ, cuối cùng chỉ còn 5 ngàn, như vậy là thiệt hại đến 90%.”
Sau khi Tổng thống Diệm bị đảo chánh bị đám tướng lãnh phản loạn – bất chấp luật pháp, bất chấp kỷ cương đất nước, bất chấp đạo lý, bất chấp tình người – giết thì ông em út cũng bị cùng chung số phận! Toà án gì đây? Luật pháp gì đây? Luật của ông Thích Trí Quang? Luật của ông Thích Đôn Hậu? Luật của cái gọi là “Phật Giáo đấu tranh”? Tội gì thưa quý bạn đọc? Tội bắt nhiều CS! Ông Dương văn Hiếu, nhờ có ông Cẩn thế mạng rồi, nên “quý thầy” khó làm áp lực thanh toán. Sau đó, cũng nhờ “đế quốc Mỹ xâm lược” can thiệp, nên chỉ bị tù.
Một cơ quan tình báo tinh nhuệ, đặc biệt, và bí mật khác, do ông Phan Quang Đông chỉ huy cũng bị xóa sổ. Cơ quan này hoàn toàn chỉ liên quan đến những điệp vụ quan trọng ngoài Bắc. Dù không hề dính dáng gì đến chuyện đàn áp Phật Giáo họ cũng bị ông Thích Trí Quang vu vạ rồi giết. Theo lệnh Hà Nội, ông Thích Trí Quang áp lực, yêu cầu chính phủ đương nhiệm, qua trung gian Nguyễn Chánh Thi, xử tử hình Phan Quang Đông, một viên chức chỉ huy tình báo tài ba xuất sắc, với tội “Mật vụ Nhu Diệm”!
Cơ quan tình báo thứ 3 hoạt đông rất hữu hiệu tại Huế, là Ty Công an Thừa Thiên của chính phủ VNCH. Số phận cơ quan này cũng bi thảm không kém. Ông Lê Văn Dư Trưởng ty bị bắt giữ.
Hầu hết nhân viên phụ trách tình báo của 3 cơ quan này, hoặc bị sa thải, hoặc bị bắt, hoặc bị thuyên chuyển khỏi các chức vụ trọng yếu. Tất cả cũng với tội danh tương tự: “Mật vụ Nhu–Diệm, đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy, v.v…”
Sau khi loại trừ sạch các thành phần “Mật vụ Nhu Diệm ác ôn”, các thầy liền thay vào cái bình cũ là cơ quan tình báo của VNCH, loại rượu mới do quý thầy bào chế ra, đó là rượu “nằm vùng”!
1. Nguyên Quận trưởng Cảnh sát Nguyễn văn Cán, một nhân viên tình báo rất quan trọng của Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan, được phong làm trưởng ty CSQG thị xã Huế. Ngoài ra, Nguyễn văn Cán còn là cơ sở nuôi dưỡng tên Phan Nam, Thành ủy Huế, đặc trách an ninh của cơ quan thành ủy VC; Phan Nam trú ngụ thường xuyên trong nhà của Nguyễn văn Cán. Sau 1975 Phan Nam làm Chủ Tịch Ủy ban nhân dân thành phố Huế.
2. Trần văn Cư, đệ tử thân tín của ông Thích Đôn Hậu, được phong làm trưởng ty Công An Thừa Thiên. Trần văn Cư chính là người thẩm vấn thụ lý nội vụ ông Phan Quang Đông. Thừa lệnh CS Hà Nội, Thích Đôn Hậu, và Thích Trí Quang ngầm ra lệnh cho chính quyền, xử bắn Phan Quang Đông tại sân vận động Tự Do, thuộc quận III thị xã Huế, với tội danh, “Mật vụ Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo thủ tiêu Quí thầy, v.v…”
Đau đớn và cười ra nước mắt, là từ 1966 đến 1968, hai ty Cảnh Sát lại giao cho hai tay nội tuyến Việt Cộng. Ty CSQG tỉnh Quảng Trị có Trưởng ty lại là Đại Úy Lê Cảnh Thâm, làm việc cho cơ quan Quân Báo của VC. Ty CSQG Thừa Thiên–Huế với Trưởng ty là Đoàn Công Lập, nhân viên thuộc cấp của Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan.
Khoảng thời gian dài này, 1966–1968, là thời hoàng kim của các hoạt động CS nằm vùng. Chỉ cần dán nhãn hiệu “Mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy” cho kẻ thù, là mọi việc xong ngay! Cả Miền Nam hoang mang, lo sợ, điêu đứng; biết bao thân phận bị vùi dập, cũng vì cái nón “mật vụ” này.
Liên Thành (circa 1970s)
Nguồn: bietdongquan.com
--------------------------------------------------------------------------------
Sau khi 3 cơ quan tình báo quan trọng và hữu hiệu này bị “các thầy” xóa sổ, cơ sở Việt Cộng trong thành phố Huế sinh phát triển tự do sôi nẩy nở như rạ, như nấm. Chính quyền tuy biết, nhưng không dám đụng đến, vì sợ đụng chạm tới Phật Giáo, sợ luôn cái nón “Mật thám Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo”. Quý thầy đã thật sự thành công trong việc tự đồng hóa “các thầy” với “Phật giáo” thuần tuý. Viết đến đây tôi không khỏi không bật cười. Tương tự như vậy, trên 60 năm nay, đảng CSVN cũng đã tự đồng hóa họ với tổ quốc Việt Nam! CSVN cũng đã thành công không nhỏ với người trong nước, nhất là với đồng bào miền Bắc! Quý thầy cũng thành công – thành công với một số lớn phật tử miền Trung!
Đại đa số các tổ chức CS như thế và hầu hết những kẻ tham gia trong các tổ chức đó, đều đã được ông Thích Trí Quang, Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Kim Loan bọc cho cái vỏ tôn giáo. Tỷ dụ như Liên đoàn Học sinh, Sinh viên Phật tử, công chức Phật Tử, Quân nhân Phật tử, Cảnh sát Phật tử, Tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba, v.v...
Trong thành phố mọc lên nhiều địa điểm hội họp, tiếp xúc, của nhiều trí thức, giáo sư, sinh viên, học sinh, hoạt động cho các tổ chức trí thức vận, tôn giáo vận của Thành ủy Huế. Những địa điểm nầy trong danh từ chuyên môn chúng tối gọi là những “căn cứ lõm” của địch, tỷ như:
(a) Quán Café “Bạn Tôi” – Ở đường Đào duy Từ, tại vùng Đập Đá thuộc quận III thị xã Huế. Lê văn Sâm, SV luật khoa, thành lập và làm chủ quán. Có Ngô Kha, vợ chồng giáo sư Đỗ Long Vân ở Pháp về, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn hữu Ngô, nhà văn Túy Hồng, Phan Duy Nhân, Trần Quang Long.
(b) Lực lượng Giáo chức tranh đấu tại Huế – Chủ tịch, kiêm chủ bút diễn đàn báo Dân là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phó chủ tịch là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm. Ngoài ra còn có tờ Sinh Viên Huế của tổng hội SV Huế, và tờ Lập Trường của nhóm trí thức đại học Huế, do giáo sư Tôn Thất Hanh làm chủ nhiệm. Chủ trương Chống lại cái gọi là “Chế độ Diệm mà không Diệm”. Quý vị độc giả, ai là người uyên thâm, xin hãy diễn giải và dẫn chứng rành rẽ, cụ thể, chứng minh dùm tôi, cụm từ “Diệm mà không Diệm” này! Tôi chịu thua. Những lộng ngôn loại này là do ai làm ra? Ai sáng tác? Ai nghe theo? Mục đích là gì nếu không để phá nát tất cả các chính quyền miền Nam, bất kể là ai lãnh đạo. Tổng thống Ngô đình Diệm đã bị họ gián tiếp giết, phong cho danh hiệu mang đầy tính tội ác, rùng rợn, răn đe, “Mỹ Diệm”, “Mật vụ Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy”. Đất nước sau đó tang thương đổ vỡ, chính trị rối loạn, nhưng vẫn chưa vừa lòng, họ thừa thắng xông tới. Họ đe doạ các chính quyền kế tiếp khác bằng khẩu hiệu mang tính bình mới rượu cũ, “ Diệm mà không Diệm”. Chỉ đơn giản vậy, nhưng buồn cười thay, một loạt các chính quyền sau đó đều xếp re, không dám hó hé với nhóm “Phật Giáo Đấu Tranh” này.
(c) Tuyệt Tình Cốc – Nằm tại hẽm Âm Hồn thuộc quận I thị xã Huế. Nguyên là ngôi nhà của cha mẹ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Sau khi hai ông bà dời nhà ra gần cửa Đông Ba, anh em Tường, Phan biến nơi nầy thành trung tâm hội họp hoạt động của đám sinh viên, trí thức cơ sở thành ủy VC Huế.
Tuyệt tình cốc là một ngôi nhà tranh, trong một khu vườn nhỏ có cây ngọc lan. Đến mùa hoa nở, hương thơm ngát.
Nguyễn Đắc Xuân (2009)
Nguồn: news.zing.vn
--------------------------------------------------------------------------------
Nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan đã đặt tên cho cây ngọc lan này là “Cây hoa tình”, và ngôi nhà kia là “Tuyệt tình cốc”,vay mượn trong tác phẩm kiếm hiệp Thần điêu đại hiệp của tác giả Kim Dung. Tuyệt tình cốc thường xuyên do anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì sau nầy còn có hoạ sĩ Đinh Cường. Trịnh Công Sơn, nữ văn sĩ Túy Hồng, Ngô Kha, Trần vàng Sao, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Xuân Kiêm, chủ tịch tổng hội sinh viên Huế, cũng đã xuất hiện nhiều lần tại đây. Hầu hết đám này là cơ sở sinh viên và trí thức vận của thành ủy Huế. Tuyệt tình Cốc cũng là nơi xuất bản tờ báo Việt Nam Việt Nam của nhóm kể trên, trong khoảng thời gian phong trào tranh đấu Miền Trung của Thích Trí Quang, giai đoạn cao điểm vào đầu hè 1966.
(d) Căn phòng của Lê Văn Hảo – Giáo Sư nhân chủng học, Đại Học Huế cũng là nơi Hoàng phủ Ngọc Tường và đám sinh viên hoạt động cho Thành ủy VC dùng làm nơi viết và xuất bản báo chí.
Vô số những trí thức, học sinh, sinh viên hoạt động cho VC tại thành phố Huế. Họ tham gia sách động, trong vai trò lực lượng quần chúng: Cách mạng đấu tranh của biến cố 1963, rồi cuộc tranh đấu bạo động 1966. Nhìn biết những điều này không khỏi giật mình tự hỏi, “Huế không mất vào tay CS trước Mậu Thân 1968 thì quả thật là một phép lạ!”
Hãy đọc qua danh sách ổ Việt Cộng nằm vùng dưới đây.
...(Còn tiếp)