|
Post by admin on May 28, 2009 14:13:38 GMT -5
Phân chất những lớp phù sa đã tấp vào dòng nhạc của mình qua những giao lưu văn hoá, Trịnh Công Sơn có nói đến những ảnh hưởng ngoại lai:
Thưở nhỏ tôi rất thích nhạc tiền chiến và có nghe một số nhạc nước ngoài. Những năm 60, tôi có nghe nhạc Blues nói về thân phận của người da đen ở Mỹ. Tôi rất thích nhạc của Louis Amstrong, D. Ellington… Tôi thấy loại nhạc này gần gũi với mình và thấy có khả năng muốn lấy nhạc này để nói lên tâm sự của mình. [5]
Và cũng trên số báo Đất Việt đó, anh cho biết thêm về ảnh hưởng: “Những năm 64-66, sáng tác có chất Blues, những năm 67-72, lại mang nhiều chất dân ca.”
“Chất dân ca” ở đây, phải hiểu theo nghĩa folk songs của Bob Dylan và Joan Baez thịnh hành thời đó. Cả hai danh ca đều hơn Sơn hai tuổi, cùng một thế hệ, cùng một lý tưởng chống chiến tranh, cùng một cây ghi-ta, cùng một điệu hát; “dân ca” ở đây không phải là hò mái nhì, hò giã gạo của quê hương. Nhạc dân tộc trong thời gian đầu, dường như không mấy ảnh hưởng đến anh. Những bài theo chủ đề ru con của Trịnh Công Sơn không mấy âm hưởng những bài hát ru em Việt Nam.
Sau này, thỉnh thoảng người nghe có nhận ra chút âm hưởng hò Huế, như trong Thuở Bống Là Người, hay điệu ru dân tộc, như Lời Mẹ Ru Con thì cũng chỉ là đôi biệt lệ, không tiêu biểu.
Gần đây, sách báo thường trích dẫn câu Trịnh Công Sơn: “Tôi chỉ là tên hát rong, đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo.”
Lại phải hiểu chữ “hát rong” theo nghĩa hiện đại: không phải là ông sẩm chợ, hát vè Thất Thủ Kinh Đô ở phố Đông Ba mà Huy Cận đã mô tả, mà hình ảnh người du ca hiện đại, những baladins itinérants trong ca khúc Bob Dylan, trong quan niệm Nhạc Du Bất Tận, Never Ending Tour (1988). Nhà thơ Tô Thùy Yên, chuộng thuyết chính danh, nên đã nói rõ điều này và gọi Trịnh Công Sơn là “người du ca chính hiệu”:
Người du ca là một nghệ sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du ca là một thi sĩ nhiều hơn là một nhạc sĩ.
Người du ca thường khi xuất hiện và nổi bật trong những thời đại được coi là u uất nhiễu nhương, những thời đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người bị cưỡng chế, giá trị con người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tước đoạt và ước vọng con người bị bao vây.
Thành thử những tác phẩm du ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài, những tác phẩm thành hình trong một thoáng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm như những ký tự ghi chép vội vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay theo thời thế.
Trong Cõi Tạm, ăn xổi ở thì này, nơi con người chôm liền chộp lẹ mọi cơ hội để mua lẻ và mua rẻ chút hư danh, có người còn viết được những lời như vậy, là nghiêm túc và tâm huyết. Nhất là viết cho một người vừa khác phe, vừa khác phái.
Văn Cao cũng là một người sành chữ nghĩa. Trong câu chuyện thân mật, anh thường nói: “Sơn là một troubadour (kẻ hát rong) có tài.” Nhưng khi viết về Trịnh công Sơn, anh dùng chữ chantre, trang trọng hơn, trong nghĩa “kẻ ngợi ca”: “bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui, và biết đau đến tận cùng những nỗi đau của Tổ Quốc Mẹ hiền.”[6] Troubadour hát nhạc mua vui cho trần thế, Chantre hát những Lời Buồn Thánh. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn cũng chỉ tự xưng là troubadour, như tên đặt cho phòng tranh anh triển lãm chung với Đinh Cường, Bửu Chỉ tại Gallery Tự Do, tháng 8/2000.
Năm 1969, bạn anh, họa sĩ Trịnh Cung, đã vẽ bức tranh đẹp, tên là Le troubadour = Kẻ du ca, hát để kêu gọi hoà bình. Những chuyện này đều tương quan với nhau.
Khi Phạm Duy gọi ca khúc Trịnh Công Sơn là những ballades, không cùng một nguồn gốc với chữ baladin, cũng là có ý trang trọng.
Các vị ấy tài cao, ý sâu mà lòng thì rộng rãi; cho nên lời cũng khoáng đạt.
* *
*
Hôm qua trăng sáng lờ mờ Em đi tát nước, tình cờ gặp Anh
Người con gái Việt Nam da vàng, ngày xưa, đã hát như thế trong ca dao, là để che giấu khát vọng tình yêu, chứ trong đời sống nông thôn thời ấy, làm gì có cái tình cờ.
Đời sống thế giới hiện nay, nghĩ cho cùng, cũng vậy thôi. Những giai điệu blues, nhạc phản kháng Bob Dylan, Joan Baez, thơ Prévert, Aragon, Eluard… Trịnh công Sơn đã gặp gỡ, trên dòng nhạc, dòng thơ, dòng tâm tư. Và dòng lịch sử, dân tộc và thế giới. Trong cao trào lớn của loài người, giữa lòng thế kỷ hai mươi: cao trào giải phóng dân tộc, chủng tộc và giai cấp. Đừng quên việc giải phóng phụ nữ: người phụ nữ Pháp đi phá ngục Bastille từ 1789, mãi đến 1946 mới có quyền đầu phiếu.
Người phụ nữ Việt Nam cũng vậy thôi: sau khi chờ chồng hoá đá, họ bước chân vào thế kỷ XX, thì ngồi đan áo. Từ Buồn Tàn Thu của Văn Cao, qua Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, thơ hiện đại của Ý Nhi, cho đến năm 2000, trong ca khúc Đêm Xanh của Bảo Chấn, cô ấy vẫn ngồi đan áo, trong khi dọc hè phố, áo pull bán rẻ mạt.
Đan áo là hình ảnh ẩn nhẫn, thụ động mà người đàn ông đòi hỏi. Đan áo cho ai đó, hay để tưởng nhớ, chờ đợi ai đó. Ca khúc Trịnh Công Sơn, rất nhiều phụ nữ, nhưng không thấy họ đan áo. Mà chỉ… ngồi chơi, khi nghiêng vai, khi nghiêng đầu, khi nghiêng sầu. Ngồi chơi chán rồi thì Đứng lên gọi mưa vào Hạ. Nếu khóc, cũng chỉ khóc cho những Chiều mưa đỉnh cao… Mai kia, có ra đi, thì cũng là Như những dòng sông nhỏ.
Người đàn bà trong Trịnh Công Sơn đẹp dung dị và tự do bình thường. Tự do với cuộc đời, với tình yêu, thậm chí với tình dục. Nhạc Trịnh Công Sơn không nói đến tình dục, vì nói đến… làm gì?
Người phụ nữ nghe và hát nhạc Trịnh Công Sơn thoải mái, vì chỉ hát, hay nghe, mà không phải làm gì cả, không phải Hái Mơ, Lái Đò, bán Hàng Cà Phê, Hàng Nước, không phải thay quần áo làm cô Sơn Nữ, cô Láng Giềng hay mua lấy số phận Người Yêu của Lính. Và nhất là không phải… đi lấy chồng: hạnh phúc không thấy đâu mà chỉ nghe oán trách dài dài suốt nửa thế kỷ: Em đi trên xác pháo, anh đi trong nước mắt… Em ơi tình duyên lỡ làng rồi, còn chi nữa mà chờ… Và, ở một chân trời khác, họ cũng không phải ba đảm đang, ba sẵn sàng, làm Người Mẹ Cầm Súng, xung phong đi gỡ mìn ở Ngã Ba Đồng Lộc…
Sau 1975, khi “Em ở Nông trường, em ra Biên giới” thì người nghe có cảm giác cô Tấm đã trở thành cô Cám, và Trịnh Công Sơn sẽ gào gọi Bống hỡi Bống hời, cô Tấm thỉnh thoảng có tái hiện, nhưng cũng đã tân trang nhiều lắm.
Trong xã hội Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa chắc gì người phụ nữ đã được giải phóng, và tôn trọng đúng mức. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, họ được giải phóng và tôn trọng. Tôn trọng người đàn bà, không phải là tán tỉnh, Trịnh Công Sơn, rất hồn nhiên đã hiểu ra và nói vào điều đó.
* *
*
Nhạc phản chiến, đòi hỏi hoà bình của Trịnh Công Sơn thì nhiều người biết, sẽ có nhiều người viết về đề tài này. Mới đây, trong buổi tưởng niệm Trịnh Công Sơn, tại Californie, anh Đỗ Ngọc Yến có nói rõ và nói đúng, khác với Đỗ Ngọc Yến cách đây 40 năm và 20 năm.
Tôi không đủ thì giờ viết về đề tài này, nhưng sẽ đề cập đến ở một dịp khác, nay chỉ vội nói ngay mấy ý kiến chủ quan:
1. Dù đánh giá ra sao đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn cũng là sản phẩm của chế độ Việt Nam Cộng Hoà, trong cả hai mặt tích cực và tiêu cực của chế độ này.
Không có Miền Nam, cũng có thể có một Trịnh Công Sơn, nhưng là một Trịnh Công Sơn khác, đại khái như một Phạm Tuyên hay Phan huỳnh Điểu.
2. Chính quyền Cộng Sản, sau 1975, sau những thăm dò, đã lưu dung một phần trong nhạc phẩm Trịnh Công Sơn và đã khéo sử dụng Trịnh Công Sơn. Có thể nói sau 25 năm chiến thắng, thành công hiếm hoi, nếu không phải là duy nhất, của chính sách văn hoá của chính quyền cộng sản, là tiếp thu nhạc Trịnh Công Sơn, mà công đầu là Thành Uỷ TPHCM. Dùng chữ “chính sách,” là để nhìn toàn cảnh, chứ đối với một cá nhân, chắc chỉ có những quyết định cục bộ, nhất thời, bất thành văn. Dù sao, họ cũng chỉ kế thừa kinh nghiệm Liên Xô vào thời kỳ Tân Chính Sách Kinh Tế (NEP) những năm 1920, sau cuộc nội chiến, khi Lenine thu dung những nhà văn, nhà thơ “bạn đường” (Popoutchiki) như Alexis Tolstoi hay Zamiatine.
Trong chiến tranh chống Pháp, người Cộng Sản đã không thu phục được Phạm Duy. Sau 1954, họ không thu phục được Văn Cao. Nhưng sau 1975, họ thu hoạch được Trịnh Công Sơn, như vậy đã là thành công. Thành công về mặt hiện tượng, không phải về mặt bản chất. Về mặt bản chất, chuyên chính vô sản không bao giờ chấp nhận cái gì khác họ, không phải do họ tạo ra. Mặt khác, ca khúc Trịnh Công Sơn trước kia và bây giờ không có “tiêu chuẩn” đáp lại quy luật của hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cố gắng đến đâu thì cây cam cũng không tạo được quả chanh. Trước kia “hai mươi năm nội chiến từng ngày” là sai đường lối, bây giờ hỏi “Em còn nhớ hay Em đã quên” vẫn sai lập trường.
Chấp nhận — dù trong giới hạn — những dư vang của một chế độ chính trị mà mình cố công bôi xoá, chính quyền TPHCM, trong chừng mực nào đó, đã nhượng bộ quần chúng, đã gián tiếp thừa nhận mình thất bại, trong việc ngăn chặn nhạc vàng, và nhất là trong việc đào tạo một nền âm nhạc mới đáp ứng với quần chúng. Chính quyền Trung ương Hà Nội ‘wait and see’ để cho TPHCM “phát huy sáng kiến”; nếu rách việc thì ra tay chận đứng một “quyết định địa phương,” nếu vô hại thì án binh bất động, và thêm được tiếng là cởi mở, hoà hợp.
3. Về phía Trịnh Công Sơn, anh cũng khéo thoả hiệp với chính quyền mới. Việc anh ở lại Việt Nam sau 1975, hợp tác với các hội văn nghệ Huế, rồi TPHCM là hợp lý, sau khi đã sáng tác “Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm”… Đó là sự chọn lựa tự do của anh. Cũng như Nguyễn Trãi xưa kia, cháu ngoại nhà Trần, mà không phò tá các phong trào kháng chiến Hậu Trần, lại đi hợp tác với đám nông dân Lam Sơn. Hay như Ngô Thời Nhậm, nhiều đời ăn lộc chúa Trịnh vua Lê, mà đã đi hợp tác với nhóm áo vải Tây Sơn. Từ đó người ta có thể thông cảm khi anh làm một số bài ca ngợi chế độ mới, không hay lắm và ít được hát, ít người biết: âu cũng là điều may mắn cho anh, vì anh đã có một số câu chữ không hay và không cần thiết.
Anh là người được hưởng nhiều bổng lộc của chính quyền, nhiều hơn những cán bộ đã vào sinh ra tử trong cả hai cuộc chiến tranh. Anh có thể hát Đời Cho Ta Thế. Thật ra, đời không cho ai cái gì mà chỉ đổi chác; anh đã phải trả giá, có khi là giá rất đắt. Anh không trả thì nhiều người khác phải trả. Ý thức điều đó có lần anh viết:
Tôi không bao giờ có tham vọng trở thành một người viết ca khúc nổi tiếng. Nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì phải có trách nhiệm với mọi người.
Nói thì ngon lành như thế. Thực tế không đơn giản: người ta cho anh bó hoa, chai rượu. Ai cho anh trách nhiệm? Anh hát “mỗi ngày tôi chọn một niềm vui,” khi bạn anh, Thái Bá Vân, nhà phê bình nghệ thuật tài danh, thuộc Viện Mỹ Thuật Hà Nội than: “Một năm không được một ngày vui.” Muốn mua vui, phải vào Sài Gòn… chơi với Sơn. Nhưng chẳng qua là niềm vui của phận “chim lồng cá chậu”; hiểu như thế, bạn bè không đòi hỏi gì nhiều ở một nghệ sĩ yếu đuối, sống chết giữa trùng vây như anh.
Người ta đánh giá một tác giả qua những tác phẩm anh ta đã thực hiện, chứ không qua những tác phẩm mà “lẽ ra” anh ta phải thực thực hiện. Nhân danh cái “lẽ ra” ấy, người làm văn học nghệ thuật đã là nạn nhân của bao nhiêu là oan khiên, oan khốc và oan khuất.
Không những vì chút tình riêng, nhưng còn vì tình đời, luật công bình, luật tương đối, luật chơi, chúng ta nên gạt sang một bên nhiều cái “lẽ ra” đối với Trịnh Công Sơn, mà chỉ xét những cái anh đã làm ra.
4. Qua bốn mươi năm truân chuyên, Trịnh Công Sơn đã có những đóng góp lớn lao vào nền văn học nghệ thuật, vào đời sống xã hội, và lịch sử chính trị. Phần lớn sự nghiệp anh đã thành hình và thành công dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà, mà mọi người đã biết. Bài này tạm thời chưa nói đến.
Ngoài quần chúng cũ, nghe nhạc Trịnh Công Sơn vì yêu thích hay để nhớ lại ngững âm hao xưa cũ, thì thính giả khác, giới thanh niên Việt Nam ngày nay, hay người miền Bắc trước 1975, đón nhận ra sao?
Trong xã hội Việt Nam ngày nay, ca khúc Trịnh Công Sơn mang lại chất Thơ cho đời sống. Nhìn qua một số đĩa hát CD, thu nhiều bài của nhiều soạn giả, thì cái tên chung thường mượn tiêu đề của Trịnh Công Sơn, như Lời Thiên Thu Gọi (Hồng Nhung), Xin Mặt Trời Hãy Ngủ Yên (Mỹ Linh), những tiêu đề nhiều âm vang, nhiều thi vị. Những nhạc sĩ khác, Dương Thụ, Phú Quang, Trần Tiến, Bảo Chấn… đều tài cao, nhưng được đào tạo và trưởng thành trong một xã hội duy dụng và thực dụng, óc sáng tạo cao siêu của họ không đặt ra những câu hỏi vớ vẩn như là Sóng Về Đâu? Vì thực tế: sóng thì… về đâu? Trong một mẩu xã hội nào đó, đặt những câu hỏi như thế, là có cơ nguy bị nhốt vào nhà thương điên.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội rất nghiêm khắc, yêu chuộng văn vần, một loại văn xuôi diễn ca (prose versifiée), với điều kiện loại văn vần ấy không có chất Thơ. Thi phẩm của “công thần” Nguyễn Đình Thi còn bị gạt ra nói gì đến “hàng thần” Trịnh Công Sơn? Nhưng ca khúc Trịnh Công Sơn đã lọt qua được các mắt lưới, vì đã cấp thời đáp lại được “lời gọi của khoảng trống” (l’appel du vide) và ca khúc là một thể loại nhẹ, phù phiếm (genre léger), chính quyền dung dưỡng vì có khả năng chận đứng bất cứ lúc nào – như đã làm với nhạc Văn Cao ngày xưa: thậm chí bài Quốc Ca còn bị hăm doạ thay đổi. Và đang làm với Phạm Duy ngày nay. Trong các CD thu tại Việt Nam hiện nay có ai thấy Giấc Mơ Hồi Hương, nhạc Vũ Thành?
Chính quyền dung dưỡng ca khúc Trịnh Công Sơn không phải vì động cơ nghệ thuật, nhưng như một thế phẩm (ersatz), trong thời kỳ quá độ, như bác sĩ ban thuốc an thần cho bệnh nhân mất ngủ. Trong khi chờ đợi, thính giả hưởng lạc khoản, được ngày nào hay ngày ấy. Họ đang được nghe bài Sóng Về Đâu một trong ca khúc cuối đời Trịnh Công Sơn:
Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi Đừng xô tôi ngã dưới chân người Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau Ta xô biển lại sóng về đâu Sóng bạc đầu và núi chìm sâu Ta về đâu đó Về chốn nào mây phủ chiêm bao
Xã hội chủ nghĩa có thể tạo ra nhiều bài hát hay hơn. Nhưng tạo ra được cái gì na ná như thế thì vô phương. Thiên tài không phải là người không bắt chước ai, mà là người không để ai bắt chước được mình.
5. Chứng từ cho giá trị một tác phẩm nghệ thuật, là khả năng kết hợp rộng rãi và lâu dài của nó. Nhạc Trịnh Công Sơn được hát rộng rãi ở Miền Nam trước 1975, chúng ta đã biết. Nhưng trước 1975, Miền Bắc đã nghe và đã thích nhạc này, như Văn Cao đã kể lại[7]. Nguyễn Duy kể thêm rằng ở dọc Trường Sơn, bộ đội miền Bắc cũng đã nghe:
Mặt trận Đường Chín — Nam Lào (1971)… trong căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng… Nghe, nghe trộm — vâng, lúc đó gọi là nghe trộm — đài Sài Gòn, tình cờ ‘gặp’ Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly… Diễm Xưa… Mưa vẫn mưa rơi… làm sao em biết bia đá không đau… Quỷ thật! giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên ‘ghim’ lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như Cánh Vạc Bay… Quái thật!… Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy… ừ thì có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy… nhưng còn là cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình như là cái Đẹp… Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp làm sao… Và cũng hơi ma quái thế nào… [8]
Người ác ý có thể ngờ vực: Nguyễn Duy là nhà báo có quyền nghe đài, sau này là bạn rượu của Trịnh Công Sơn, nên thêm thắt. Thì đây, một chứng từ khác đến từ một anh bộ đội, không quen biết gì, không điếu đóm gì với Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn văn Thọ, hiện ở Berlin:
Năm 1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam Sơn 719 vớ được cái đài Sony rât tốt.
Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh Công Sơn.
Chúng tôi là lớp người lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau hoà bình.
Rất lạ, với tôi khi đó nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn, hoà bình, đạo lý. Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội khi đó.
Quý hoá hơn nữa, anh Thọ đã ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh Công Sơn hát Nối Vòng Tay Lớn, buổi trưa ngày 30/4/1975, trên đài Sài Gòn:
Mặt đất bao la… anh em ta về… gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng…”
Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học.
Chúng tôi tiến vào Sài Gòn…
Nối Vòng Tay Lớn
Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc thường dễ nổi cáu và nổi doá.
Đấy là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh.
Tiếng hát làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hằng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao?
Văn học nghệ thuật Việt Nam, đã bao nhiêu lần đóng vai trò đó?
Sau này, Thọ sang sinh sống tại Đức, theo diện xuất khẩu lao động, vẫn nghe nhạc Trịnh Công Sơn:
Ngay cả sau này, đôi khi tự an ủi mình, nâng đỡ mình, tôi khe khẽ hát ‘Tôi ơi đừng tuyệt vọng’… và nhiều bài ca khác trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng tôi vẫn nhớ từng chi tiết và cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở trưa phát thanh trên làn sóng Sài Gòn ngày đó. [9]
Ở một chân trời khác, nhiều người oán trách Trịnh Công Sơn về việc lên đài hát Nối Vòng Tay Lớn, trưa ngày 30.4.1975. Thật ra, anh có hát hay không hát, thì chế độ Việt Nam Cộng Hoà cũng tan rã. Anh có hát, và có hợp tác với chính quyền mới, âu cũng là một cách cứu vãn vết tích văn hoá của nền Việt Nam Cộng Hoà đã đào tạo ra anh về mặt tài năng và sự nghiệp, thậm chí tạo ra cả một huyền thoại Trịnh Công Sơn.
Một lần nữa, ông Nguyễn Văn Trung, sau “Ảo ảnh Thanh Thúy” nếu viết “Trịnh Công Sơn Thực Chất Và Huyền Thoại” cũng sẽ nghĩ ra nhiều điều hay.
Nếu có ai đó nói rằng: Trịnh Công Sơn là một khổ nhục kế, để kéo dài hơi thở văn hoá của một chế độ chính trị đã bị bức tử, thì là lời đại ngôn, duy cảm, nghịch lý, vớ vẩn.
Vớ vẩn như một số lời ca trong tác phẩm Trịnh Công Sơn. Nhưng biết đâu chẳng là sự thực? Sự thực trong bao nhiêu cái vớ vẩn, kể cả trong lịch sử.
Chế Lan Viên, năm 1984, đã viết: “Văn hoá của thực dân mới là con đẻ của chủ nghĩa thực dân mới. Quân sự, chính trị thực dân mới có chết, có băng hà thì nó cũng truyền ngôi cho văn hoá.”[10] Và Chế Lan Viên không phải là người vớ vẩn, viết lách vớ vẩn.
* *
*
“Không xa đời và cũng không xa mộ người…”
Trịnh Công Sơn đã xa đời lúc 12 giờ 45 tại Sài Gòn, ngày 01.4.2001.
Đám tang ngày 4 tháng Tư, nghe nói lớn lắm, hàng trăm tràng hoa ngập con hẻm 47 Duy Tân. Hàng vạn người đưa tiễn, trong đó có thể có người đi tiễn một điều gì khác, một tâm tình hay u hoài nào đó của riêng mình, chẳng hạn.
André Malraux có nói đâu đây rằng “trong Thiên Chúa Giáo, chỉ có những pho tượng là vô tội.” Trịnh Công Sơn đã sống non nửa sau cuộc đời, trong một chế độ chính trị mà các pho tượng cũng không phải là vô tội.
Những đoá hoa đặt trên mộ Toa, Sơn ơi, không phải là đoá hoa nào cũng vô tội.
Bây giờ moa mới khóc Toa đây. Tại nhà moa, ngồi ở chỗ Toa ưa ngồi vẽ, nhìn dòng sông nhỏ, mà Toa đã gọi là sông An Cựu.
Sơn ơi, đời này, và sang đời khác nữa, làm gì có đến hai dòng sông An Cựu;
an cựu, Sơn ơi.
Đặng Tiến Orléans, 14.04.2001
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Trịnh Công Sơn, Nhạc và Đời, nxb Tổng Hợp Hậu Giang
[2] Đất Việt, Canada tháng 6, 1986
(Thật ra bài Ướt Mi, làm năm 1958, nxb An Phú, in 1959)
[3] Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, nxb Trẻ, TPHCM, 1991, tr. 115
[4] Phạm Duy, Hồi Ký Thời Phân Chia Quốc Cộng, nxb Phạm duy Cường, California, 1991, tr. 287
[5] Đất Việt, Canada tháng 6,1986
[6] Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, nxb Trẻ, TPHCM, 1991
[7] Văn Cao, Lời Bạt cho tập nhạc Trịnh Công Sơn Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, nxb Trẻ,, TPHCM, 1991.
[8] Nguyễn Duy, trong Tôi Thích Làm Vua, nxb Văn Nghệ, TPHCM, 1987
[9] Nguyễn Văn Thọ, “Nhớ Trịnh Công Sơn,” Nước Đức, ngày 4.4.2001
[10] Chế Lan Viên, “Văn hoá thực dân mới chết hay chưa chết,” trong Ngoại Vi Thơ, tr. 121, nxb Thuận Hoá, Huế, 1987
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 14:14:14 GMT -5
Bằng Phong Đặng văn Âu viết: Ghi chú của BBT Da Màu:
“Bình luận/nhắn tin” dưới đây của ông Đặng Văn Âu vi phạm quy định của tạp chí Da màu. Chúng tôi cho hiển thị chỉ với mục đích tham khảo. Bạn đọc có thể theo dõi phần trả lời của tạp chí Da màu ở đây: Tạp chí Da Màu lên tiếng về bình luận của độc giả Đặng Văn Âu
BBT Da Màu
——————————
Thưa anh < tên bị xóa >,
< đoạn bị xóa để bảo vệ danh tính người nhận>. Tôi vốn qúy Sơn, nhưng từ khi anh ta vâng lệnh Nhà Nước viết thư cho ca sĩ Joan Baez thì tôi đánh giá Sơn thấp. Tôi không hề cho Sơn là cộng sản, vì Sơn cũng thừa biết Cộng Sản không bao giờ cho phép Sơn được tự do sáng tác như ở Miền Nam. Nhưng khi tôi đọc thư Sơn viết cho Ngô Kha (Bửi Ý còn giữ một phiên bản) thì tôi giận Sơn vô cùng, vì một mặt chơi thân với mình, một mặt khác Sơn toa rập với cộng sản. Khi một người mình qúy mến mà lừa mình thì đau hơn là người xa lạ lừa mình. Tôi thực tình không muốn nhắc đến Sơn, nhưng khi đọc trên Thanh Niên Onliine thấy mấy Việt Cộng nhào ra bênh Sơn bằng lời lẽ trịch thượng như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường miệt thị Trịnh Cung, thì tôi mới lên tiếng. Những người như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường chưa bao giờ bị chính quyền Miền Nam khủng bố đàn áp, lại được học hành tử tế và được tuyển dụng làm giáo sư, mà chạy theo Việt Cộng, dẫn Việt Cộng về tàn sát dân Huế là điều không thể tha thứ được. Đất Nước càng ngày càng tồi tệ, Trung Quốc hống hách, chiếm đất, chiếm biển mà nhân dân bày tỏ sự phẫn nộ thì Nhà Nước CSVN đàn áp. Thế mà những ông VC xưa kia chống ngoại bang (Mỹ) rất hăng hái; còn bây giờ thì câm như hến. Một lũ hèn, bồi bút mà cứ mở miệng ra là tranh đấu! Chiếm Miền Nam, Việt Cộng hành xử như một bọn thổ phỉ, vơ vét của cải, đuổi dân đi vùng Kinh tế mới để chiếm nhà chiếm đất. Thế mà bọn theo Cộng vẫn gọi đó là cách mạng giải phóng! Đó là cái bất lương của kẻ đã mang danh cầm bút! Trí thức quái gì cái bọn đó! Nguyễn Đắc Xuân được gọi là “nhà nghiên cứu” mà viết một bài chửi Trịnh Cung thật quá tệ về văn từ và phong cách, lê thê, luộm thuộm, mè nheo … Vì không biết địa chỉ email của anh, nên tôi phải viết lên Damau.org để hy vọng được anh sẽ đọc đôi điều cảm nghĩ của tôi. Da Màu có email cho tôi là đã nhận bài viết của tôi và hứa sẽ trả lời trong thời gian sớm nhất. Nhưng không thấy Da Màu trả lời thì tôi biết xu hường lập trường của họ. Kính chúc anh dồi dào sức khỏe để viết khỏe.
Trân trọng,
Bằng Phong Đặng văn Âu (hoalong1@att.net)
- 18.04.2009 vào lúc 6:21 am Nguyễn Văn Thà viết: Xin nói một chút về giả thuyết dè dặt trên kia:
1. TCS có những bài ca gồm nhiều hình ảnh, biểu tượng xé lẻ, cũng có thể do ông chịu ảnh hưởng kiểu diễn tả những lát đời chắp nối bằng những sắc màu (mosaique) của ngũ quan, của tâm tư trong cuộc đời cũng gồm những lát như thế, như trong nhiều bài trong thơ mới thế kỷ 20 trên thế giới, của Jacques Prévert chẳng hạn, hay Sylvia Plath, hay ai đó nữa ai mà biết được. Nhưng cũng có thể TCS chẳng chịu ảnh hưởng ai cả; tại sao hễ nói đến cái hay, cái tài của một nghệ sĩ Việt Nam thì nhất định phải chịu ảnh hưởng của phương, của phái, của người nước ngoài nào đó. Thú thật tôi đọc rất nhiều các tác phẩm văn, thơ nước ngoài, tôi thấy họ chẳng có gì ghê gớm lắm đâu.
2. Tôi thấy có một số ca khúc của TCS có tính liên lạc nội tại trong các vế và trong bố cục nữa, mang tính-truyện, có mở, có kết đàng hoàng, ví dụ bài Níu Tay Nghìn Trùng (1) hay bài Lời Mẹ Ru… là những bài thơ có kết cấu cổ điển, và ngôn từ rất Việt Nam nhưng được sắp xếp một cách rất khác người. Ngôn từ đó, lối sắp xếp đó tạo nên những mảng màu, những giòng cảm xúc đánh động được tri giác thẩm mỹ, tâm tư của người nghe, nhất là người Việt. Dùng từ nào, và sắp xếp làm sao, thì ngay chính tác giả cũng không sao giải thích được, dù là tác giả thiên tài. (Tác giả nào giải thích được chuyện mình sáng tác ra sao, tác giả ấy ta không nên tốn thời giờ đọc, nghe họ.) Vậy, TCS rất rành tiếng Việt, dù ông ta không học chương trình Việt, nhưng còn tiếng mẹ cũa người mẹ mà ông rất thương, xứ Huế, Sài Gòn hay cả một miền Nam với văn hóa Việt cũ, mới được phổ biến, và nở rộ vào thời điểm đó… Không khó lắm để giỏi tiếng Việt trong một môi trường như thế. Tôi biết nhiều người có tú tài Pháp, thậm chí có anh còn được điểm cao nhất các trường Tây toàn Đông Nam Á, khi viết bài thi văn chương Pháp (anh ta viết vể Baudelaire), khi viết văn Việt cũng ngành ngọn như ai. Huống hồ TCS là một thiên tài.
(1)
Níu tay nghìn trùng
Một chiều kia có người tình trẻ Đi lang thang quanh ngôi thành cổ Từ bờ môi hát lên nhè nhẹ Từ lời ca rớt thành cơn mưa
Một chiều kia có mây mù mù Mây rơi nhanh rơi trên cửa nhà Người tình kia mất con đường về Và trời kia mất em từ độ
Mặt trời xa đã bay về gần Rơi trên sông rơi sau bờ thành Nhìn cỏ cây ráng pha màu hồng Nhìn lại em áo lụa thinh không
Mặt trời như trái cây tuyệt vọng Rơi trong đêm rơi trong đời nàng Và từ đó có em thì thầm Lời quạnh hiu suốt con đường tình
Một chiều kia có em buồn buồn Thân mong manh như lau sậy hiền Về đồi mây thắp hương nằm mộng Rồi ngủ quên giữa trời mênh mông
Một chiều kia có em nhẹ nhàng Đi không nhanh chân không vội vàng Về nguồn xưa gối tay nằm bệnh Về cội xưa níu tay nghìn trùng.
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 14:15:47 GMT -5
Trịnh và Trịnh: Hảo vọng và Ảo vọng Đặng Tiến Chia sẻ với bạn bè♦ 12 bình luận ♦ 23.04.2009 Bài báo « Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị » của Trịnh Cung trên mạng Damau.org ngày 01.4.2009 đã gây ra nhiều âm thanh và cuồng nộ. Là người có dính líu ít nhiều đến nội vụ, tôi đã được bạn bè yêu cầu lên tiếng. Đáp lại những yêu cầu chính đáng ấy – nhất là từ mạng damau.org – tôi xin nói ngay, vắn tắt: a) Tôi không đồng ý với bài viết của Trịnh Cung, về đại ý cũng như cung cách diễn đạt. Nhưng theo một châm ngôn, tương truyền của Voltaire: “tôi không tán thành những điều anh nói, nhưng nguyện phấn đấu đến tàn hơi, để anh được nói lên những điều đó”. Điều này, tôi học lóm được nơi các nhà tranh đấu cho dân chủ ở phương Tây. b) Bài báo của Trịnh Cung nêu lên một câu hỏi chính trị; cuộc tranh luận gay gắt từ lúc đầu, kéo dài đến hôm nay – hơn ba tuần – mang bản chất chính trị, không thấy soi sáng thêm được việc gì, mà càng gây thêm thương tổn. Có những tranh luận nâng cao, mở rộng tư cách người viết và người đọc. Có những tranh luận làm con người thấp xuống, nhỏ lại. Biết vậy, mà vẫn phải nhận. c) Trước một án mạng, người điều tra thường đặt câu hỏi: án mạng có lợi cho ai? Trước hằng loạt bài báo gây thương tổn, tôi thắc mắc: cuộc tranh luận không tốt đẹp này, có lợi cho ai? Tôi không có câu trả lời. Người nào có được giải đáp, tấc lòng sẽ thanh thản hơn. Chấm dứt phần chính yếu. Dưới đây, chỉ là phụ chú. * Nói là dính líu đến nội vụ vì tôi thân thiết với nhạc sĩ đã quá cố và họa sĩ suýt quá cố. Cách đây hơn tháng, từ Pháp về nước, ghé Sài gòn hơn tuần, tôi đã đến thắp hương cho Sơn hai lần, một lần đi với nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn từ Phan Thiết vào, một lần với nhà văn Lữ Quỳnh từ Mỹ về, vào chiều 27 tháng hai. Trước và vào ngày đó, tôi có gặp, đi ăn cơm và rong chơi với Trịnh Cung nhiều lần. Để nói rằng giữa chúng tôi, không có vấn đề gì. Ngoài ra, với những nhân vật chính yếu được nhắc nhở tới, với tôi đều là chỗ “thâm giao” (chữ này của Trịnh Cung). Do đó nhiều người muốn tôi lên tiếng. A – Tham vọng hay không ? A1. Tôi thành khẩn cho rằng: Trịnh Công Sơn không có tham vọng chính trị. Thậm chí không hiểu biết gì về chính trị. Trịnh Cung cũng vậy thôi. Chính trị là một khoa học, hay nghệ thuật về quyền bính, việc lập đảng, tranh cử, giành quyền và nắm quyền. Cả hai ông họ Trịnh là những công dân giàu lòng ưu ái với đất nước. Vậy thôi. A2. Bài báo của Trịnh Cung không chứng minh được tham vọng chính trị của nhạc sĩ. Cao điểm của bài là đoạn TCS cuối tháng 4-1975 chờ chức Quốc vụ Khanh. Đây quả là “tham vọng”. Nhưng TC nhớ nhầm thời điểm: chuyện xảy ra khoảng 1970, và do lời Nguyễn hữu Đống kể lại. Đống là ai, thì TC đã nói rõ. Nhưng sự kiện và thời điểm, vẫn theo lời Đống là thế này: khoảng 1970, chiến tranh tàn khốc và trở thành phi lý, vì đã có Hòa hội Paris. Đống và các bạn âm mưu một cuộc đảo chánh trong hòa bình, với lực lượng thanh niên, sinh viên thành phố biểu tình, đốt đuốc tuần hành, và sẽ có những đơn vị quân đội lật đổ chính quyền Thiệu. Âm mưu mà thành công, thì người bạn của Đống (không phải là anh rể), là TCS, sẽ giữ bộ văn hóa, nhạc Kinh Việt Nam (1968) sẽ được dùng làm quốc ca. Đống cũng còn nói loạt bài Kinh Việt Nam là do anh gợi ý cho tác giả. Tôi cho rằng không đúng. Đặng Tiến & Nguyễn Hữu Đống Đấy là lời Đống, kể cho nhiều người nghe, có lẽ cho TC năm 1992, và cho tôi nghe nhiều lần, lần cuối vào tháng 12.2007 tại nhà tôi, tại Pháp. Trước đó ít lâu, anh có kể cho Nguyễn Đắc Xuân, ông này viết lại nguyên si trên tạp chí Hồn Việt, số 1, tháng 7-2007, mà không mách xuất xứ. Tôi dài dòng, vì « huyền thoại » này chưa nghe phe phản biện phanh phui. Nguyễn đắc Xuân trong bài dông dài trên mạng , cũng không nói ra minh bạch. A3. Chi tiết này chứng tỏ TC không am tường chính trị. Những ngày cuối tháng 4-1975, Sài gòn sống trên dầu sôi lửa bỏng. Việc thành lập chính quyền Dương văn Minh với thủ tướng Vũ văn Mẫu là cuộc thương lượng gian nan. Làm sao có chỗ đứng cho phó thủ tướng Nguyễn hữu Đống hay quốc vụ khanh Trịnh Công Sơn ? Làm sao TCS lại là đại diện Phật giáo ? Sơn là phật tử nhưng có hoạt động cho đảng phái Phật giáo ngày nào đâu ? Đại diện Phật giáo lúc ấy là thủ tướng Vũ văn Mẫu. Đại diện Công giáo là Nguyễn văn Huyền, phó thủ tướng hay phó tổng thống gì đó. TC bỏ công đi hỏi Lý Quý Chung làm gì ? Một khi không am tường chính trị và thời sự thì làm sao gán cho người khác tham vọng chính trị ? Ngoài ra, chính TC cũng nhận xét « không có chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa MTGPMN và TCS… (…) TCS không ở trong một đường dây nào của tổ chức ». Muốn có tham vọng chính trị thì phải có đảng phái, đoàn thể. Ba tập nhạc phản chiến không đủ chứng minh « ý thức làm chính trị chống chế độ Sài gòn » như TC nói. TCS chỉ chống chiến tranh qua sáng tác âm nhạc, chứ không « làm chính trị chống chế độ ». Và rồi nhiều bài trong ba tập nhạc phản chiến nói trên hiện nay vẫn không được hát. Độc giả nào đọc đến đây, nghĩ như tôi rằng TC không am tường chính trị, thì có thể chia sẻ với tôi : cuộc tranh luận này có đáng gì đâu mà phải ồn ào và nặng lời với nhau. A4. Vậy thì nguồn gốc tranh biện ở đâu ? Nó bắt nguồn từ hiềm khích của TC với TCS, đã có từ lâu, về việc TCS hợp tác với chính quyền sau 1975. Năm 1978, TC đi học tập về, TCS xin được hộ khẩu từ Huế vào lại Sài gòn. Mùa hè 1979, tôi từ Pháp về thăm nhà. Tháng 8.1979, gặp TC tại Sài gòn, tôi hỏi : « Lâu nay ông có gặp Sơn không ? ». Đáp : « Moa không chơi với nó ». Hỏi : « tại sao ». Đáp : « Nó thỏa hiệp với chính quyền ». Hỏi : « Thì phải làm vậy để sống và sáng tác chớ ? ». Đáp : « Nhưng nó không cần làm tới mức đó ». Hỏi : « Bây giờ tôi đi gặp nó, ông có đi với tôi không ? ». Đáp : « Ừ, đi thì đi ». Vậy là tối hôm ấy, hai ông đã tái hợp tại nhà thân nhân tôi, số 4 đường Phan Kế Bính, quận 1, cùng với nhiều bạn họa sĩ, bạn cũ, có thêm người mới nhập tịch là họa sĩ Lưu Công Nhân. Hai ông Sơn và Cung có lời qua tiếng lại, tôi chỉ nhớ một câu của Sơn : « đời moa chưa bao giờ phổ nhạc thơ ai trừ toa ». Kể chuyện vụn vặt là để cung cấp một thông tin. Mối bất hòa đã âm ỉ từ lâu, không phải bây giờ TC mới nghĩ ra. A5. Nhưng tại sao hôm nay anh mới nói ra và phát biểu dữ dằn như vậy, lại nhằm ngày giỗ bạn ? Xin thưa : Để giải tỏa những ẩn ức, bức xúc làm cho anh « quằn quại ». Ngày TCS mất, TC đang ở Mỹ và lâm bệnh, tưởng là nan y. Trong buổi tưởng niệm TCS do báo Người Việt tổ chức tại quận Cam, đầu tháng tư, năm 2001, anh đã phát biểu hăng say, ca ngợi TCS hết mình, tại một miền đất khách gồm nhiều người căm hận TCS. TC tự cho mình là chí tình và dũng cảm. Bây giờ về lại quê nhà, giữa một rừng hợp xướng tụng ca chối tai thì TC ngột ngạt, ân hận rằng có lúc nào đó mình đã nói quá đà. Những lời mình xưng tụng bạn, thì cũng na ná như bản đồng ca. Còn những u uất của riêng mình, của bè bạn, và của khối quần chúng không có tiếng nói thì không phát biểu được. Vậy TC phải nói, trên một mạng lưới điện tử ở hải ngoại, cho được tự do.Và nói vào ngày giỗ, vì trước kia mình đã phát ngôn vào ngày tưởng niệm. Mình chỉ nói được nửa sự thật, thì bây giờ nói nửa phần còn lại. Do đó hai diễn ngôn, 2001 và 2009 mâu thuẫn, thậm chí đối nghịch. Kỳ thật, đây là hai mặt của một đồng tiền, không mâu thuẫn mà lại bổ sung cho nhau. Nó còn biểu hiện cái lô gíc trong nội tâm, ý thức, và tiềm thức của một TC ẩn ức muốn tự giải thoát ra khỏi « ngục tù trong tôi suốt 30 năm qua » bằng một bài viết với kết luận « không còn một sự lựa chọn nào khác ». Tiếc rằng tâm sự của anh bị phản kích kịch liệt. Một phần lỗi tại anh : bài viết thô tháp, thiếu tập trung, thiếu chính xác. Phần khác, còn nhiều lý do ngoài sự dự đoán của anh. Khoảng 1956, Nguyễn Tuân lên thượng du, từ Sapa gửi về Tô Hoài một lá thư không ghi ngày tháng, khoảng 100 chữ vu vơ, kèm theo tái bút : « Khi lên cao, mình có bị ong đốt, mặc dù chẳng có trêu phá gì nó ». Bây giờ TC chạm vào tổ ong, đành phải chịu hậu quả. Nhưng vẫn còn những thắc mắc, ví dụ câu hỏi của Lữ Phương, hay Phương Ngạn trên mạng Eo gió : « phải chăng có một thế lực nào đó đang đứng sau lưng TC, xúi dục ông đi ngược với lương tri ?». Tôi nghĩ trả lời được : Không có thế lực nào xui dục TC (và Phương Ngạn), anh cũng không đi ngược lại lương tri mà trái lại còn tuân theo thôi thúc của lương tri. Tuy nhiên, nếu có ai hỏi ngược lại tôi: đằng sau tràng đại pháo oanh kích tự do lên TC, thì có thế lực nào chăng ? Thì tôi chịu thua, không trả lời nổi. Bao nhiêu năm qua, chúng tôi sống như trong mê hồn trận : ngẩng lên thì sợ đầu chạm tổ ong, bước xuống thì sợ chân đạp tổ kiến. Trong một cuộc đời lắm ong nhiều kiến. A6. Tiện việc, cũng nói qua về cái tên Trịnh Cung : tôi hoàn toàn không biết gì về việc anh mượn họ của người bạn nhạc sĩ để làm bút danh. Thời 1962, tôi quen anh, chưa có bút danh này. Bức tranh Mùa thu tuổi nhỏ – được giải thưởng tại cuộc triển lãm quốc tế cuối năm 1962 – ký tên Nguyễn văn Liễu. Sau đó, anh mới lấy bút danh Trịnh Cung, mà chúng tôi gọi đùa là Tử Cung. Thời này TCS dạy học ở Blao và chưa nổi tiếng. TC ở tại số 18 chợ Trương Minh Giảng, trong một căn phòng nhỏ, 3×4m, thường đi chơi với nhóm nhà thơ Ninh Chữ, Hoàng Trúc Ly, triết gia Phạm Công Thiện, thỉnh thoảng có cả Tuấn Huy. Nhóm này không thân với TCS. Có lần ai đó hỏi về bút hiệu mới – không có ý nghĩa gì cả – thì TC trả lời chọn vì âm vang và tiện cho việc ký tên dưới bức tranh. Tên thật Nguyễn văn Liễu dài quá. Hai chữ Trịnh Cung gọn gàng và dễ ký đẹp. Anh còn cho biết thêm là đã tìm ra bút danh này trong một cầu tiêu khi tạm trú ở nhà ông bác phía Tân Định-Đa Kao gì đó. Tôi tin vào lời kể của đương sự hơn là giả thiết mượn họ của người khác làm bút danh cho mình. Còn lý do khác : TC là người tự cao, thậm chí kiêu kỳ. Chơi trò gì, chơi với ai, anh cũng thường muốn chơi trội, cao hơn thiên hạ một cái đầu, ai may mắn lắm mới được họa sĩ xếp ngang vai. Nhiều người không ưa anh vì tánh tình, chứ không phải vì chuyện thị phi. Một họa sĩ lừng danh từng thân thiết với TC, trong Hội Họa sĩ Trẻ, sang Paris, tôi hỏi thăm TC, được trả lời « mình không gặp ». Hỏi « tại sao ? ». Đáp « thằng đó lối lắm ». Từ lời kể của TC, đến những sự kiện tôi chứng kiến, đến tâm tính TC, tôi cho rằng bút danh TC không do vay mượn. Mà nói cho cùng, dù anh có mượn họ của TCS làm bút hiệu, thì khi anh bất bình cũng phải cho anh phát biểu chứ ? B –Gạn đục khơi trong . Bài báo của TC nêu lên những nghi vấn về chính trị, nhưng không lấy gì làm thời sự, chỉ khơi lại những chuyện cũ đã xa xưa. Bài đăng trên mạng Damau.org ở hải ngoại. Nhưng lập tức báo Thanh Niên là báo giấy có thế lực lớn trong nước, của đoàn thể, có chỉ đạo, phản ứng thô bạo, lên án TC bằng tiêu đề « Ngậm máu phun người ». (Cái gì mà ghê gớm vậy ?) Tiếp theo là Vietnamnet, báo mạng của nhà nước. Cuộc tranh luận – tranh nhiều hơn luận – mỗi lúc một gay gắt, thấp kém, trong khung chính trị đậm nét. Nhà văn Lữ Phương giàu kinh nghiệm đã nhận định đúng : « tất cả những gì đáng nói ở đây là nội dung chính trị trong cuộc đời TCS chứ không phải là giá trị của tác phẩm nghệ thuật » (mạng Viet-studies, ngày 6-4). Vậy chẳng nên dài dòng về nghệ thuật, cũng không nên rề rà về chuyện bạn bè tình nghĩa. B1. Nối vòng tay lớn : Việc TCS lên đài Sài gòn trưa ngày 30-4-1975, hát Nối vòng tay lớn là một sự kiện biệt lập, đã xảy ra trong bối cảnh lịch sử, quân sự, chính trị, tâm lý, phức tạp. Không thể trình bày giản lược như TC đã làm : « hát Nối vòng tay lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS tác giả của ca khúc đã dự báo cho ngày huy hoàng này của quân giải phóng và bi thảm cho VNCH ». Cùng một sự kiện, nhưng mỗi người cảm nhận, tiếp thu một cách khác nhau, giải thích khác nhau. Với thời gian, sự kiện có nơi loãng đi, có nơi đanh lại. Bàn cãi vô ích mà có khi còn làm con người đã xa nhau, càng xa nhau. Theo tôi thì lúc ấy, TCS mừng hòa bình hơn là mừng chiến thắng. Bài hát làm từ 1968, bày tỏ khát vọng đoàn viên, chứ không dự báo điều gì. Bài hát ấy, những con người ấy, cây đàn ghi-ta ấy, thời điểm ấy, địa điểm ấy, trùng phùng trong một cơ may. Không ai dự báo, tiên liệu hay xếp đặt được. Sài gòn hôm ấy, buổi trưa ấy, chưa hoàn toàn lọt vào vòng kiểm soát của lực lượng Giải phóng. Đài phát thanh nằm trong tay một nhóm sinh viên và thanh niên. Gọi họ là Việt cộng, là tay sai Cộng sản cũng được, nhưng trên bản chất chính yếu, họ là tuổi trẻ của Sài gòn, của Miền Nam, nói là của VNCH cũng được. Họ không là kẻ chiến thắng, cũng không là người chiến bại : có đánh chác gì đâu mà thắng với bại. Nối vòng tay lớn nói là khúc hát Khải hoàn, hay tiếng hát Thiên nga, hay tiếng hát Dã tràng, đều được. Sáng tác 1968, và thai nghén trước đó, Nối vòng tay lớn 1968 là khát vọng, tháng 4-1975 là khát vọng, hôm nay tháng 4-2009 vẫn là khát vọng. Mà dường như vòng tay ai đó mỗi ngày một khép. Khát vọng hòa bình là tâm thức của một thời đại. Trịnh Cung 1969 có một bức sơn dầu tuyệt vời, tên bằng tiếng Pháp là Le Jeune troubadour (Đứa Trẻ Du Ca), 100 x 80cm, vẽ cậu nhạc sĩ trẻ, ôm đàn ca hát hòa bình đang trở về, một buổi mai thôn xóm, có con chim non về đậu trên mái tóc. Tuổi trẻ, ôi tuổi trẻ của chúng ta, gian nan và thống khổ, sao mà thơ ngây và mơ mộng đến thế !!! B2. Tôi ra nước ngoài từ 1966, nói chuyện 1975 là dựa vào tư liệu. Về tiếng hát TCS, trưa ngày 30-4, tôi mường tượng ba loại phản ứng : x-) Những người hân hoan, mừng chiến tranh chấm dứt. Bài hát bày tỏ ước mong đoàn tụ ; ước mong hòa hợp dân tộc không thành, lỗi không phải tại người dân. y-) Những người công phẫn, oán trách thái độ phản trắc. Bây giờ trong nước hay ngoài nước vẫn còn oán hận. z-) Những người bàng quan, không đặt vấn đề gì. Chuyện bọt bèo của lịch sử, cái gì đã qua thì cho qua. Hát hay không hát, cũng đến vậy thôi. Bỏ đi Tám. Mỗi thành phần có tỉ lệ bách phân ra sao thì không rõ, đề nghị độc giả đoán giùm. Vui thôi. Thành phần x có tiếng nói, dồi dào, trong và ngoài nước ; Thành phần y, chỉ có tiếng nói ngoài nước. Nay có TC, ở trong nước, phát biểu giúp họ một số ý kiến thì cũng là một giải tỏa cho người trong nước. Thành phần z không quan tâm, cho cuộc tranh luận là lỗi thời vớ vẩn. Theo tôi, cả ba thành phần đều có cái tình, cái lý riêng, cần được lắng nghe và tôn trọng. Đồng ý hay không, không nhằm nhò gì, nhất là hơn 30 năm sau. B3. Nhân vụ việc đài phát thanh này, xin bổ sung về Tôn Thất Lập Thời điểm tháng 4-1975, anh ở Paris, trong phái đoàn sinh viên yểm trợ MTDTGPMN dự hòa hội. Anh trú ngụ tại nhà bạn Việt kiều cùng lứa tuổi, số 2 Square des Mimosas, thường lui tới hội Huynh đệ Việt nam, số 18 đường Cardinal Lemoine, tôi thường gặp anh ở đây và một vài buổi chiêu đãi hội, hè gì đó. Anh có xuất bản tập nhạc « Cánh chim từ vùng lửa đỏ » 1974 Paris, nay tôi còn giữ trong tay. Tham dự buổi phát thanh 30-4-1975 tại Sài gòn dĩ nhiên không thể có mặt Tôn Thất Lập. Hôm ấy có nhiều người, có cả ký giả nước ngoài. Tôi thử hỏi vài người hiện diện thì không ai nhớ chuyện đuổi TCS ra khỏi đài phát thanh. B4. Nêu câu hỏi này nọ, là quyền của TC, về bất cứ đề tài gì. Tiếc rằng cách trình bày của anh làm mất hiệu lực vấn đề được nêu lên. TCS là nhân vật của công chúng. Đánh giá tư cách nhạc sĩ, là quyền của công chúng, trong đó có TC. Anh lại có quyền sử dụng những hiểu biết riêng để minh họa cho lý luận. Nhưng anh không cần viện dẫn cuộc chiến tranh đã qua, vì không có ích lợi gì cho lập luận, mà chỉ khơi lại : « những oán hận dai dẳng vần con chưa dọn sạch, những tâm thức tàn dư của một thời xung đột đã qua, nay vẫn còn đè nặng lên tâm tư nhiều người Việt, từ bên này đến bên kia » như Lữ Phương đã nhận xét.Cụ thể hơn nữa, TC không cần trở lại vị thế sĩ quan cũ, không cần biện minh, kết án, ít nhất là trong đề tài này ; con đường anh trải qua, không liên quan gì đến con đường TCS, và nhiều người khác, đã chọn. Đây lại là chuyện tự do và dân chủ.Vả lại, có ai tắm lại được hai lần trong cùng một dòng sông ? Lập luận của anh, do đó không những mất hiệu lực, mà còn cho tạo cảm giác ẩm mốc, « cái mùi chơi trội kiểu chiến tranh tâm lý ở Miền Nam trước 1975 » (Lữ Phương). Bản chất chính trị của đề tài kéo theo cuộc tranh luận khập khểnh, là việc không tránh được. Nhưng chính anh tạo điều kiện cho nó xuống cấp. Anh không gạn đục khơi trong. Mà đã làm ngược lại Thông cảm với anh, khi anh đau lòng kết luận « không còn sự lựa chọn nào khác », tôi thành thực nghĩ rằng : vẫn một chọn lựa nội dung ấy, anh còn nhiều cách nói khác ôn tồn hơn. Bài viết TC, với những sai sót, nhược điểm, chứng tỏ niềm cô đơn ghê gớm của anh. Thời xưa, một người bạn thân thiết đã có câu thơ anh tâm đắc, thường ngân nga: Cô đơn đỉnh núi gần trời Nghiêng vai ta khoác nụ cười áo xanh Niềm cô đơn êm ái ấy, nụ cười áo xanh nọ, thời gian kia, nay đã xa khơi. Có u hoài, là tiếc cho « mùa thu tuổi nhỏ » 1962 xa khơi, chứ không phải TC « cô trung cho một thực thể chính trị bóng ma » như Lữ Phương đã viết, hơi nhanh, hơi gọn. Và Lữ Phưong đặt « giả thuyết » : « TC mượn TCS như một cái cớ để bày tỏ nỗi cô trung chính trị của mình, gửi tới các chiến hữu từ xa như một cách góp phần kỷ niệm những ngày tháng tư đen sắp tới ». « Giả thuyết » như vậy là ác, là lập trình bản án dụng tâm (procès d’intention). Mà theo tôi vừa không đáng vừa không đúng : TC không có chiến hữu nào cả, nếu có thì đã có người biên tập lại bài báo cho tề chỉnh và tuyên truyền hiệu quả hơn. Vả lại thời buổi này, người khôn của khó, ai dại gì đi làm « chiến hữu » với TC ?
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 14:18:26 GMT -5
Ngoài đề
Bài này không có kết luận, nhưng rồi cũng phải kết thúc.
Không biết viết gì nữa, chúng tôi đành xin ra ngoài đề.
Hiện nay, tại Paris đang có cuộc triển lãm lớn về danh họa gốc Nga Kandinsky, ông tổ của nền hội họa trừu tượng, đánh dấu cái nhìn mới về nghệ thuật từ đầu thế kỷ XX.
Trong hồi ký Nhìn lại Quá khứ, Kandinsky kể rằng, năm 1908, tại Murnau (Đức quốc) một buổi chiều đi chơi về, ông bắt gặp một bức tranh lạ lùng, tuyệt diệu, mà không nhận ra được đề tài. Nhìn kỹ, ông nhận ra là tranh của chính mình nhưng treo lệch theo chiều cạnh, không đúng hướng. Từ đó, ông thôi vẽ theo hình dung, mà sáng tác, lập thuyết trừu tượng.
Chuyện thật và không thật.
Thật vì chính tác giả kể lại
Không thật vì một trường phái hội họa, một khúc quành lớn trong lịch sử mỹ thuyật loài người, không thể nảy sinh từ một sự kiện tình cờ, một bức tranh treo ngược. Hội họa trừu tượng đã manh nha trong tiềm thức nhân loại từ thời tiền sử.
Từ giai thoại này, ta thấy : không thể từ một hay nhiều sự việc, dù có thật, trong một đời người, mà suy ra cuộc sống của người ấy, nhất là một nghệ sĩ.
Rồi từ cuộc sống có thực của người ấy, ta không thể suy diễn ra giá trị nghệ thuật mà họ sáng tạo.
Từ sự kiện đến cuộc đời, rồi từ cuộc đời đến tác phẩm, con cá chép phải vượt qua ba cấp, « vũ môn tam cấp », để hóa rồng.
Rồng là một chủ đề quen thuộc trong văn chương, nghệ thuật đông và tây phương.
Dù rằng, hay chính vì, rồng chưa bao giờ có thật.
Rồng chưa bao giờ có thật.
Đặng Tiến
Orleans, 21.04.2009
bài đã đăng của Đặng Tiến
Trịnh và Trịnh: Hảo vọng và Ảo vọng - 23.04.2009 Đời và nhạc Trịnh Công Sơn - 18.04.2009 Hoàng Trúc Ly: Nụ cười trong và đôi mắt sáng - 13.04.2009 Mấy lối giảng thơ - 09.04.2009 Thơ là gì ? - 06.04.2009 Đọc sách: Mùa biển động - 26.03.2009
12 bình luận » Minh Đức viết: Trong phần mở đầu bài viết Trịnh Công Sơn & Tham Vọng Chính Trị, tác giả Trịnh Cung có trích ra câu trong sách của Hoàng Tá Thích: “Anh không bao giờ đề cập đến chính trị, đơn giản vì anh không quan tâm đến chính trị”, và trong bài viết của Bửu Chỉ: “Trong dòng nhạc phản chiến của mình, TCS đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả” và dưới đó là những chi tiết đưa ra để chứng minh rằng Trịnh Công Sơn cũng có những quan tâm, những toan tính về chính trị. Đầu đề “Tham vọng chính trị” dễ làm cho người đọc hiểu đó là tham vọng quyền hành cho cá nhân. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa rộng thì một người có tư tưởng không chấp nhận tình trạng chính trị hiện tại muốn dẹp bỏ chính quyền hiện tại để thay thế bằng một chính quyền khác, thay đổi khung cảnh chính trị cũng có thể được cho là có tham vọng chính trị, mặc dù cái tham vọng không bao gồm người đó được dự phần chức vụ trong chính quyền mới. Trong chuyện Nguyễn Hữu Đống cho Trịnh Công Sơn làm một chức vụ gì đó trong chính quyền mới thì việc Trịnh Công Sơn có muốn giữ một chức vụ nào đó trong chính quyền hay không mới là quan trọng. Nếu Trịnh Công Sơn quả tình có muốn một chân trong chính quyền thì quả là Trịnh Công Sơn cũng có tham vọng chính trị, có toan tính chính trị cho bản thân. Theo như cách thuật lại của cả Trịnh Cung và Đặng Tiến, dù cho có khác nhau, thì Trịnh Công Sơn không từ chối một chức vụ mà Nguyễn Hữu Đống đề nghị. Việc TCS gia nhập phong trào đấu tranh lật đổ chính quyền miền Nam thì đã quá rõ là có quan tâm đến chính trị. Cũng như việc TCS đồng ý với đường lối của MTDTGPMN khi nghe Nguyễn Ngọc Lan bàn cũng là có đề cập đến chính trị. Chuyện xét cho Trịnh Công Sơn làm đảng viên đảng CSVN cũng là bằng chứng cho thấy TCS có tham vọng chính trị. Dù cho có phải là Hoàng Hiệp bác đi hay không, dù cho việc kết nạp vào đảng CS không thành thì việc TCS có ưng vào đảng CS mới là yếu tố quan trọng. Giả sử nếu việc kết nạp được chấp thuận thì TCS có từ chối vào đảng CSVN hay không? Theo Trịnh Cung kể thì TCS quả có ý muốn xin vào đảng CSVN nhưng ý muốn đó không thành tựu. Việc TCS chấp nhận phục vụ cho chế độ CSVN, nhờ thế mà xin được hộ khẩu tại TPHCM và được cấp nhà cũng là dấu hiệu của việc có quan tâm đến chính trị và có tham vọng chính trị vì đó là thái độ chấp nhận đường lối chính trị của đảng CSVN và phục vụ cho đường lối này. Chấp nhận phục vụ cho chế độ thì được ưu đãi hơn, có đời sống vật chất dễ dãi hơn và được báo chí của chế độ ca tụng. Nếu bảo rằng vì một người không thuộc một tổ chức nào thì không có tham vọng chính trị thì không đúng, là chỉ xét theo bề ngoài. Tham vọng chính trị là ý muốn trong tâm tư người đó rồi sau đó vì tham vọng và người đó có sẽ gia nhập tổ chức nào hay không. Về sau TCS cũng có tham gia tổ chức của chế độ CSVN, đó là Hội Văn Nghệ. Hội Văn Nghệ của chế độ CSVN là một hội mang tính chất chính trị chứ không phải là một hội thuần túy văn nghệ như tại các nước tự do. Hội Văn Nghệ là hội nằm dưới sự chỉ đạo của đảng CSVN, có mục đích phục vụ cho đường lối chính trị của đảng CSVN. Đó là bước đầu của con đường tham vọng dù là rất nhỏ bé so với những cán bộ đầy quyền hành của chế độ. Rồi sau này đi thêm bước nữa là gia nhập đảng CSVN chẳng hạn.
- 23.04.2009 vào lúc 1:52 am Mai Anh Vũ viết: Tôi cũng nghĩ rằng nếu “cung cách diễn đạt” của TC đỡ gay gắt hơn, không phán xét và rao giảng đạo đức thì bài viết sẽ không phải chịu phản ứng mạnh mẽ như vậy. Nếu hoạ sĩ chỉ viết trên cương vị một người bạn gần gũi với NS TCS với mục đích “làm sáng tỏ những ngóc ngách trong đời sống của một nghệ sĩ tài hoa nay đã thành người thiên cổ” (lời BBT Da Màu) thì chắc sự việc đã diễn tiến theo chiều hướng khác.
Tôi cũng thấy một thực tế là rất nhiều người hăng hái cổ xuý cho dân chủ, nhân quyền, tự do tư tưởng nhưng họ lại rất thiếu tôn trọng quan điểm của những người khác.
- 23.04.2009 vào lúc 8:08 am Hà Thủy viết: Bài viết hay,rõ ràng và có vẻ trung thực.Nó như một cơn mưa đang làm dịu bớt đi những cơn nóng về đề tài này.
- 23.04.2009 vào lúc 8:43 am Trinh - Trung Lap viết: Xem ra đến giờ này dường như giữa các tác giả vẫn chưa thống nhất định nghĩa về chính trị nhỉ !
Tác giả Đặng Tiến thì căn cứ trên khái niệm : ‘…..Chính trị là một khoa học, hay nghệ thuật về quyền bính, việc lập đảng, tranh cử, giành quyền và nắm quyền……..”
Tôi còn nhớ trong 1 tác phẩm, Nhà văn Sơn Nam có kể rằng : Tướng Nguyễn Khánh của Việt nam cộng hòa thì cho rằng …”chính trị là đường lối chính sách cai trị nhân dân….”
Theo bình luận của Tác giả Minh Duc ở trên thì :”….nếu hiểu theo nghĩa rộng thì một người có tư tưởng không chấp nhận tình trạng chính trị hiện tại muốn dẹp bỏ chính quyền hiện tại để thay thế bằng một chính quyền khác, thay đổi khung cảnh chính trị cũng có thể được cho là có tham vọng chính trị, mặc dù cái tham vọng không bao gồm người đó được dự phần chức vụ trong chính quyền mới…..”.
Như vậy lại xuất hiện thêm 2 từ mới : tình trạng chính trị và khung cảnh chính trị !!
Ngoài ra từ hôm thảo luận đến giờ, tôi thì dùng từ “chính kiến” (quan điểm chính trị), có người dùng từ “tư thế chính trị”,… và cứ đà này Cố Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn chắc cũng “bó tay.com” với Quý vị luôn.
Tôi thấy có những cụm từ sau đã được phổ dụng ở các quốc gia : - kinh tế chính trị (political economics - các nước Phương Tây có chấp nhận môn này) - sinh mệnh chính trị - tù chính trị - chính trị học …..
Còn ở đây Họa sĩ Trịnh Cung thì dùng từ “tham vọng chính trị”. Tôi cho rằng từ này làm cho người ta hiểu cách cảm tính theo nhiều nghĩa và gây ra nhiều phản ứng rất khác nhau.
Tôi xin đưa ra 1 ví dụ buồn cười như thế này để thấy hiểu sai nhiều khi cũng tai hại lắm. Rằng : mấy người dân ở 1 đất nước không có dân chủ thì rất sợ nhận xét lãnh đạo quốc gia của họ vì họ nghĩ như vậy là họ đang “phạm chính trị” và họ có thể bị phiền toái với cảnh sát. Còn người dân ở 1 nước phát triển thì họ hiểu được họ có quyền công khai nhận xét những đường lối chính sách của 1 nội cát đang lèo lái quốc gia của 1 nhiệm kỳ nào đó. Thậm chí họ cũng không ngại phát biểu khi dược phỏng vấn trên truyền hình.
Vậy tôt nhất, tôi thấy chúng ta nên dùng đúng cụm từ mà Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã dùng khi Ông nói về chính trị. Đó là cách hay nhất để đánh giá Ông khi đưa về 1 cách hiểu chung. Đó là cụm từ “xu hướng chính trị” (Ông dừng từ này trong 1 cuộc phỏng vấn)
Vì rằng xu hướng chính trị của 1 cá nhân, theo tôi, thường được thể hiện qua các hành động cụ thể sau : - bỏ phiếu/ không bỏ phiếu (có ý thức) khi bầu cử những vị trí trong 1 nội cát/ đảng phái. - diễu hành/biểu tình ủng hộ hoặc phản đối những chính sách của chính quyền, đảng phái. - tham gia hoạt động (bí mật hoặc công khai)nhằm xây dựng, bảo vệ và duy trì 1 chính quyền/ đảng phái. - đưa ra ý kiến/ tác phẩm ủng hộ hay chống đối chính sách của 1 chính quyền/ đảng phái.
Căn cứ trên những tiêu chí đại loại như trên chúng ta sẽ thấy ngay xu hướng của Trịnh mà không cần bàn cãi gì nữa, ok ?
Không nên dùng chữ “tham vọng” trong trường hợp này vì không đủ chứng cứ thuyết phục. Tôi cho rằng 1 cá nhân đôi khi cũng không ý thức được mình có đang tham vọng hay không nữa hay đó là bản năng hoặc sở thích nhất thời.
Thân ái,
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 14:19:06 GMT -5
Lũy viết: Bài viết của Đặng Tiến thật ra cũng không khơi sáng được vấn đề Trịnh Công Sơn có hay không tham vọng chính trị (phần chủ đề của cuộc tranh luận). Trong phần chính anh nhận định từ mấy tuần nay, cuộc tranh luận “…không thấy soi sáng thêm được việc gì, mà càng gây thêm thương tổn.” Phần phụ chú thật ra là phần chính. Qua những hiểu biết bên trong, Đặng Tiến chỉ muốn phân trần cho Trịnh Công Sơn và cả cho Trịnh Cung vì cả hai đều là bạn. Anh không muốn nhìn thấy cả hai đều bị tỗn thương vì những điều không nên và không đáng. Theo tôi thì Đặng Tiến nhân bài viết này đở giùm cho Trịnh Cung đang bị đánh hội đồng tơi bời hoa lá và không khéo, (hình như đã và đang xảy ra) cả vợ và con đang bị liên lụy bởi cái giả thuyết độc ác của Lữ Phương. Thật ra, nói cho cùng thì cũng nhân dịp này để cho mọi người bênh/chống có dịp để xả stress bị dồn nén trong bấy lâu. Trong cái dở cũng thấp thoáng một điều không dở. Phụ chú: Hình như anh Đặng Tiến cũng có quen biết với Nguyễn Trọng Tạo. Không biết anh có lời nào khi Nguyễn Trọng Tạo dành một chổ trang trọng trong blog của mình để đăng bài của ông Thuận Nghĩa. Sở dỉ tôi nhắc đến bởi thấy anh có nhắc qua các bài đăng trong báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ
- 23.04.2009 vào lúc 10:19 am Thanh Bình viết: Bài viết của nhà phê bình Đặng Tiến đã góp phần giải tỏa những nghi vấn về các sự kiện chủ yếu trong bài viết của họa sĩ Trịnh Cung. Chuyện “quốc vụ khanh”, Tôn Thất Lập …
Riêng chuyện bài ca “Nối vòng tay lớn” do Trịnh Công Sơn hát trên đài phát thanh Sàigòn trưa 30/4/75, theo ông Đặng Tiến, là do những thanh niên yêu nước miền Nam, Sàigòn, “không là kẻ thắng, cũng không là kẻ bại”, gặp nhau tình cờ mà thành. Lúc đó đương nhiên là chưa có “người miền Bắc” vào chỗ đó. Nếu có vào được cũng chẳng biết làm gì với cái đống máy móc xa lạ ấy. Nhưng những kẻ dám vào và được vào chỗ quan trọng đó trong ngày 30/4/75, sau lời tuyên bố đầu hàng của tướng Dương Văn Minh chắc chắn phải có sự “chỉ đạo” của tổ chức nội thành CS. Điều quan trọng là họ đã lựa TCS chứ không phải ai khác. TCS, một nhạc sĩ lừng danh “phản chiến”, hát tiếng hát “hòa bình” trong ngày “đại thắng” có ý nghĩa gì? Thật ra, khung cảnh thuận lợi nhất để hát bài này phải là lúc hai miền Nam, Bắc ký kết Hiệp định Paris đình chiến, chấm dứt chiến tranh. Nhưng ngày 30/4/75 là lúc đa số người miền Nam có mặc cảm chiến bại. Lời hát đó thay vì là lời “hòa bình”, nhanh chóng biến thành lời ca “đắc thắng” trong tai người “bại trận”. Không thể nói vui là có kẻ bàng quan, cho qua, “bỏ di tám”…Kẻ đó là những ai? Họ là thành phần “thứ ba” hay “thứ tư” nào đó trong cộng đồng người Việt miền Nam?
- 23.04.2009 vào lúc 10:43 am dk_anh viết: Nhà phê bình Đặng Tiến đã khơi mở (có thể gợi ý) để nhẹ nhàng khép lại một cuộc tranh luận có thể làm tổn thương cả hai phía. Kẻ bị hoang mang là những thính giả trẻ tuổi đành ôm ấp câu hát ngậm ngùi của Vũ Thành An ” Triệu người quen có mấy người thân, khi lìa trần có mấy người đưa… ?” Để thay đổi không khí nặc mùi thuốc súng, xin phép được post một bài thơ lục bát của Nguyễn Duy, một người bạn của hai nghệ sĩ họ Trịnh :
Xúc phạm
Nghêu ngao hát ngọng nghẹo chơi người cười nói xúc phạm người ngậm tăm
Siêng làm xúc phạm phàm ăn kẻ đi xúc phạm kẻ nằm dài lưng
Đàn kêu tưng tửng từng tưng con trâu xúc phạm sợi thừng cột trâu
Bông hoa xúc phạm con sâu con cá xúc phạm lưỡi câu ao nhà
Ông bụt xúc phạm con ma lão say khước xúc phạm bà tỉnh queo
Cái sang xúc phạm cái nghèo cái ngay xúc phạm cái khoèo bẩm sinh
Đàn kêu tinh tỉnh tình tinh cái tâm xúc phạm cái hình vô tâm
Cõi dương xúc phạm cõi âm cõi thiên xúc phạm cõi trần tục gian
Đàn kêu tang tảng tàng tang nàng chơi đẹp xúc phạm chàng xấu chơi
Ngứa nghề hát ngọng nghẹo thôi người yêu nhau xúc phạm người ghét nhau/…
Nguyễn Duy
- 23.04.2009 vào lúc 6:43 pm Bkhanh viết: Kính gửi Ban biên tập Da màu,
Tôi thật bất ngờ khi thấy dường như mùi chiến tranh vẫn còn đâu đây trong khi nghĩ rằng Ban biên tập đã thông báo khép lại các tranh luận liên quan đến đề tài này
Tôi là người sinh sau năm 75, trẻ tuổi nhưng chắc không hoang mang như anh/chị dk_anh viết. Đối với tôi, cách nhìn nhận về tài năng và giá trị âm nhạc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không hề bị ảnh hưởng bởi những thông tin mà họa sĩ TC đưa ra vì không liên quan. Tôi không có ý định tham gia phán xét tư tưởng chính trị, tư cách cá nhân của người khác vì tôi tôn trọng quyền tự do của họ nhưng không thể không bày tỏ sự thất vọng về những người thuộc thế hệ trước, ở cả hai phía, những người dường như chỉ chờ đợi một cái cớ để ra sức bảo vệ cho chính thể Cộng hòa hay Cộng sản không toàn vẹn của mình, cho dù phải nhắm mắt bịt tai về những sự thật thuộc về thế giới, phe phái bên kia, cho dù phải vắt óc suy nghĩ và tìm cách diễn giải rồi phán xét lời nói của người khác cứ như mình là đại diện của công lý toàn vũ trụ, hoặc cho dù phải lên gân cốt “phun châu nhả ngọc” những từ ngữ rất khó coi, nặng mùi tâm lý chiến giữa thời bình. Thật trả trách vì sao đất nước bao nhiêu năm vẫn lẹt đẹt, cộng hòa hay cộng sản thì đã đem lại được gì để dân tộc Việt Nam hiện nay có thể tự hào, nếu không muốn nói là không bị coi thường bởi các quốc gia khác. Đừng nói đến mấy ngàn năm lịch sự hào hùng, tôi tin những người dân bình thường ở các nước khác chẳng mấy khi biết, mà họ chỉ biết vì sao Việt nam đói nghèo, lạc hậu, tham nhũng, vì sao tỷ lệ phạm tội của cộng đồng người Việt ở nước họ cao. Xin phép đươc nói luôn đây không phải là tôi nghe “tuyên truyền” từ đâu mà chính là những gì tôi đã trải qua khi học tập và làm việc tại ít nhất 2 quốc gia có cộng đồng người Việt lớn. Nói dài dòng như vậy, để các quý vị đang hăng say bảo vệ cho lý tưởng chính trị của mình thấy rằng, dân tộc (hay ít nhất là một người trẻ như tôi) sẽ biết ơn các quý vị, dù các vị theo phe cộng hòa hay cộng sản nếu các vị là nhà khoa học, nghệ sĩ (như TCS), thương gia,… góp phần đem lại niềm tự hào về con người Việt Nam trên thế giới, chứ chẳng có ích gì nếu cứ mất thời gian tô xanh tô đỏ cho những thực thể chính trị hoặc đã trở thành bóng ma, hoặc vẫn còn đang mò mẫm.
Vì vậy, tôi mong rằng Ban biên tập Da màu hạn chế các ý kiến cá nhân vô bổ, chẳng đem lại thông tin nào có giá trị về sự thật. Thay vào đó dành đăng tải các nội dung văn chương nghệ thuật có giá trị, hoặc các thông tin về xác nhận sự thật (có hay không có) từ cả 2 phía.
Xin cám ơn Ban biên tập đã dành thời gian đọc ý kiến của tôi.
- 24.04.2009 vào lúc 12:27 am Ho Truong viết: Xin nêu một giả thiết: Có thể nhac si Tôn Thât Lập đã nói về TCS “mày có tư cách gì mà hát ở đây!” khi TTL đã về Saigon,nghe bạn bè kể lại việc TCS ôm đàn hát NVTL trưa ngay 30/4 tai Dai Phat thanh.Sau đó TCS hoac ai đó trong đám ban be, lúc trà dư tửu hậu kể lại với TC cũng nên. Nhân đọc bài viết của Bùi Văn Phú viết về ca từ TCS, tôi có ý nghĩ :Điều lớn nhất, chung nhất của TCS là hát ca cho phận người, phận người mong manh, phận người nhỏ nhoi trong chiến tranh, trong tình yêu,trong cõi đời, cõi người ta,… Đời ông cũng khổ lắm!
- 24.04.2009 vào lúc 1:36 am Ho Truong viết: Ở ý kiến trước tôi có viết “Nhân đọc bài viêt của Bui Van Phu về ca từ TCS” ,xin đính chính :bài viết của Bùi VĨnh Phúc. Xin lỗi hai tác giả và xin cám ơn ông Bùi Vĩnh Phúc về bài viết rất đặc sắc của ông. Tiên đây xin phép trích một vài ca từ TCS ông đã dùng trong bài viết để bổ sung cho phần bình luân của tôi : Cái lớn nhất, chung nhất:TCS hát ca cho phận người.
Trước 1975, phải chăng chúng ta đã chia sẻ cùng TCS nỗi xót xa về phận người Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi Để một mai vươn hình hài lớn dậy? Ôi, cát bụi mệt nhoài. Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi?
•Trăm năm ở đậu ngàn năm Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn •Người ra đi bến sông nằm lạnh Này nhân gian có nghe đời nghiêng Lời cỏ cây hát trên da người
Bầy vạc bay qua Kêu mòn tịch lặng Đường đời không xa Sao chồn gối chân (…)
Dù ta như con đường dài vắng người Lòng ta trăm con hạc gầy vút bay
Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi
Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này? Còn bao lâu cho mây đen tan trên hồn người?
Và sau 1975, vùi trong những cơn say , bạn có nghĩ rằng , TCS tìm đến rượu là vì:
Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng / rơi rất gần rơi xuống trong tôi Đừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng tuyệt vọng Ông đã từng tự hỏi: Đường nào quạnh hiu tôi đã đi qua? Đường nào dìu tôi đi đến cơn say? Hư vô vẫn là ám ảnh không nguôi suốt đời ông: Con mắt còn lại nhìn đời là không Nhìn em hư vô / Nhìn em bóng nắng Ca khúc “Một cõi đi về” cũng nói cho ta biết tâm tư của ông trong những ngày tháng đó. Và trong những ngày tháng đó ông đã thao thức, trăn trở về một con đường, để cuối đời vẫn “Tiến thoái lưỡng nan”.
- 24.04.2009 vào lúc 4:50 pm Bùi Vĩnh Phúc viết: Xin cám ơn độc giả Ho Truong về những góp ý quý báu.
Vụ TC & TCS tôi nghĩ Da Màu đã làm tốt. Trình bày và tôn trọng những cái nhìn khác biệt, những đóng góp thích đáng từ nhiều chiều. Và bỏ đi những ý kiến, những bài viết quá cực đoan, quá khích. Tôi nghĩ Da Màu đã làm tốt việc này. Tôi cũng nghĩ, ở một mức độ nào đó, cũng giống như đối với Pablo Picasso, Pablo Neruda, Sartre, chúng ta có thể chú ý đến cuộc sống cá nhân, cuộc sống chính trị và xã hội của họ để hiểu thêm về con người và những yếu tố xác định tác phẩm của những nghệ sĩ hay nhà tư tưởng lớn ấy; nhưng cái lắng đọng với thời gian, cái để lại trong cuộc đời một người nghệ sĩ phải là tác phẩm của ông ta hay bà ta. Những cái khác chỉ là những phụ chú mà thôi.
- 25.04.2009 vào lúc 4:31 pm Thế Nhân viết: Lại một người bạn TCS viết về TCS và TC. Ông Đặng Tiến không đồng ý với bài viết của Trịnh Cung, „về đại ý cũng như cung cách diễn đạt“ đã viết: „Tôi thành khẩn cho rằng: Trịnh Công Sơn không có tham vọng chính trị. Thậm chí không hiểu biết gì về chính trị. Trịnh Cung cũng vậy thôi. Chính trị là một khoa học, hay nghệ thuật về quyền bính, việc lập đảng, tranh cử, giành quyền và nắm quyền. ………………………………………………. Tôi dài dòng, vì « huyền thoại » này chưa nghe phe phản biện phanh phui. Nguyễn đắc Xuân trong bài dông dài trên mạng , cũng không nói ra minh bạch“ Viết với phong cách, ngôn từ như thế để hạ giá bài viết của TC và dẫn chứng 2 ông bạn họ Trịnh không biết gì về chính trị (khác với tiêu đề tham vọng chính trị) có trịch thượng, nhưng nông cạn và thiếu cẩn trọng không? Theo tôi, TCS đã có ý thức chính trị rõ ràng khi viết lời tựa cho tập nhạc Kinh Việt Nam (1968) để phản đối chiến tranh và nói lên thân phận đau thương của người Việt. Ai lớn lên ở miền Nam trong những năm đó mà không 1 lần hát những bản Gia tài của mẹ,Người con gái VN da vàng hay Nối vòng tay lớn. Tôi cũng thế thôi. Nhưng việc làm của TCS những năm sau đó có đi đôi với lời hát hay không là vấn đề đau thương khác! Vì mỉa mai thay, trong lúc TCS thụ hưởng sự che chở, đón đưa của 1 số tướng tá, quân quyền miền Nam nhậu nhẹt đến “Đêm Không Ngủ, Ngày Bất Tỉnh” thì bao nhiêu người ở thế hệ ông hay thế hệ sau ông không có điều kiện để lựa chọn như ông đã bỏ mình trong cuộc chiến mà ông cho là vô nghiã, phi lí, lời ông „20 năm nội chiến từng ngày“, chỉ vì họ đã lớn và sống ở miền Nam trong thời chiến; Nếu có may mắn hơn thì sau 75 cũng phải bao năm miệt mài học tập trong các trại cải tạo. Về nguyên nhân về sự bất hòa giữa TCS và TC, đoạn A4 được kết thúc như sau. „Hai ông Sơn và Cung có lời qua tiếng lại, tôi chỉ nhớ một câu của Sơn : « đời moa chưa bao giờ phổ nhạc thơ ai trừ toa ».Kể chuyện vụn vặt là để cung cấp một thông tin. Mối bất hòa đã âm ỉ từ lâu, không phải bây giờ TC mới nghĩ ra“ Viết như thế để minh chứng điều gì trong sự bất hòa „quan trọng“ này, 30 năm sau ông chỉ nhớ được có thế sao? hay nó cũng chỉ là chuyện trà rượu tầm thường vào năm 1979 của 1 ông Việt kiêù yêu nước về thăm VN tạo điều kiện „tái hợp“ cho 2 ông bạn bất hòa, 1 ông là cựu sĩ quan ngụy đi học tập cải tạo về bị TCS tẩy chay ngầm (lời đương sự trong bài liên quan) và 1 ông sau khi đi sản xuất tự túc được thuyên chuyển công tác về Sài Gòn (lời 1 ông bạn khác của TCS, ông Nguyễn Đắc Xuân công bố trên Da Mầu ngày 17.04.09 : „Với lương tháng 64 đồng là cao so với cán bộ, nhưng đối với TCS, số tiền ấy không đủ để mua thuốc hút và mua rượu cho ba mươi ngày…. TCS không thể kéo dài cuộc sống bấp bênh “ăn ít uống nhiều” .…..thân mẫu của anh cũng không thể rút ruột kéo dài tình trạng phải gởi cho con trai làm công tác cách mạng ở Huế mỗi tháng một chỉ vàng mãi được“) để „thây kệ toa moa uống rượu tiếp“. Có lẽ trước và sau đó cũng thế thôi. Nhưng trong năm 79 đời sống ở VN thật khó khăn trước kinh tế thời bao cấp, bao người vẫn học tập chưa có ngày về, vô số người Việt trên đường tìm tự do đã bỏ mình ở biển Đông. Các ông có biết chăng? Sau khi vòng vo dông dài có lúc đả cả hai, có lúc khen lúc chê 2 ông bạn họ Trịnh, tôi không ngạc nhiên khi ông viết :“Bài này không có kết luận, nhưng rồi cũng phải kết thúc. Không biết viết gì nữa, chúng tôi đành xin ra ngoài đề“. Nhưng xin được phép nhắc khẽ ông! Ông thành khẩn viết bài này vì những yêu cầu chính đáng của bạn bè cơ mà! Đây là câu chuyện bạn bè của TCS. Tôi mượn lời của người phương Tây để kết thúc. Xin thượng đế bảo vệ tôi trước những bạn bè, còn với những thù địch tôi sẵn có khả năng tự vệ. (Dieu me protège de mes amis, de mes ennemis, je m´en occupe moi-même !) Thế Nhân
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 14:24:26 GMT -5
Thư gởi họa sĩ Trịnh Cung về chuyện lừa người nổi tiếng vào chuyện tuyên truyền chính trị rẻ tiền Nguyễn Đắc Xuân Chia sẻ với bạn bè♦ 30 bình luận ♦ 17.04.2009 Trích Quan Điểm của tạp chí Da Màu (thay Lời Tòa Soạn): Khi đăng tải “Trịnh Công Sơn & Tham Vọng Chính Trị” của họa sĩ Trịnh Cung, BBT Da màu đã hy vọng là bài viết sẽ "tạo cơ hội làm sáng tỏ những ngóc ngách trong đời sống của một nghệ sĩ tài hoa nay đã thành người thiên cổ." Trong những “ngóc ngách” này tất nhiên NÊN có cả tư thế chính trị của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, không nhất thiết vì ông có hay không có tham vọng ở lãnh vực này mà chính vì cung cách hành xử, những tao ngộ, và đặc biệt âm nhạc của ông trong và sau cuộc chiến tương tàn đã khiến tên tuổi/thân thế ông gắn liền với một giai đoạn vô cùng bi thảm của lịch sử nước nhà. Nói cách khác, ông là một nhân vật lịch sử, một đặc quyền ông không thể từ chối và kẻ khác không thể tước đoạt. Và như là một nhân vật lịch sử, mọi khía cạnh đời sống của ông đều có thể được quan sát và đánh giá từ nhiều góc nhìn khác nhau. Bài viết của tác giả Trịnh Cung, bất kể một số khiếm khuyết có thể làm giảm đi tính thuyết phục, chủ ý đưa ra một số nghi vấn về tư thế chính trị của người nhạc sĩ tăm tiếng này. Bất kể đồng ý với ông hay không, người đọc cần thiết phải vượt lên trên những phản ứng đầy cảm tính để tiếp cận bài viết của họa sĩ Trịnh Cung ở góc nhìn công chính của mình. Rất tiếc, điều này đã không hề xảy ra. Trái lại, chúng ta chứng kiến một cuộc “Tổng Công Kích” ở mức độ chưa hề nhìn thấy kể từ … Tết Mậu Thân! Tác giả bài viết “Trịnh Công Sơn & Tham Vọng Chính Trị,” đúng hơn là nhân cách của ông, một sớm một chiều trở thành mục tiêu bắn phá đồng bộ bởi hầu hết các cơ quan truyền thông trong nước. Và điều này đang tiếp tục, mãnh liệt hơn. Trong nhận định của chúng tôi, bài viết “Thư gởi họa sĩ Trịnh Cung về chuyện lừa người nổi tiếng vào chuyện tuyên truyền chính trị rẻ tiền” của nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Xuân trên chính tạp chí này, với chủ ý "đạp gai lấy gai mà lễ," đã thể hiện tính gay gắt cao độ trong tranh luận. Tất nhiên, một cung cách tranh luận như thế e rằng sẽ không giúp cho bạn đọc và người trong cuộc đến gần hơn với sự thật, vốn luôn là ước muốn của tạp chí Da Màu… đọc tiếp» Huế, một ngày chớm hè 2009 Anh Trịnh Cung, Những tuần cuối tháng 3-2009 vừa rồi, tôi không được khỏe, nhưng vẫn phải vào TP HCM để tiếp báo chí, các Đài Truyền hình nói rõ chuyện tôi tìm được Trường ca Tiếng hát dã tràng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (NS TCS) như thế nào để giúp ca sĩ Ánh Tuyết ATB nhân ngày giỗ lần thứ tám của nhạc sĩ dàn dựng trường ca nầy vào tối ngày 1-4-2009 tại Nhà hát Hòa Bình vừa qua. Không ngờ trong thời gian đó thì anh - họa sĩ Trịnh Cung - người mệnh danh là bạn thân thiết với Trịnh Công Sơn lại bừng bừng khí thế chuẩn bị món quà cúng giỗ lần thứ tám cho bạn mình bằng bài viêt “Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị”. Món quà cúng giỗ của anh dành cho NS TCS làm cho người gần kẻ xa phải trào nước mắt. Họ khóc vì tức giận anh, khóc vì thương NS TCS không may có một người bạn như anh và đồng thời cũng có người khóc vì cám ơn sự dũng cảm của anh đã “hạ” được thần tượng Trịnh Công Sơn trong lòng họ. Báo Thanh Niên (ngày 4 và 5-4-09), hàng chục trang Web trong và ngoài nước nóng lên với hàng mấy trăm ý kiến phản biện món quà ngày giỗ NS TCS của anh. Thiển nghĩ như thế đã đủ và chỉ còn chờ sự tiếp thu của anh nữa mà thôi. Nhưng không ngờ nhiều độc giả trong và ngoài nước, trong đó có cả các con của tôi mà anh đã gặp, gởi e-mail, gọi điện thoại, gặp trực tiếp, đại ý bảo tôi: NĐX là bạn của NS TCS, bạn của họa sĩ Trịnh Cung, bạn của hầu hết những tên tuổi được nêu trong bài viết của Trịnh Cung, những quan hệ, những hoạt động của họ ít nhiều có liên quan đến NĐX, nếu NĐX không lên tiếng có nghĩa NĐX đồng lõa, hoặc có nghĩa những gì Trịnh Cung viết đều đúng cả. Anh Trịnh Cung, Ta quen nhau đến nay vừa tròn nửa thế kỷ (1959-2009). Lúc ấy anh mới ở làng Chụt, P. Vĩnh Nguyên, Nha Trang ra học Mỹ Thuật, còn mang tên Nguyễn Văn Liễu, làm thơ với bút danh Thương Nguyệt. Trong anh em có Cao Hoàng Nhân, Chiêm Đàm, Thanh Nhung, Ái Phượng Liên… Cuộc sống rất nghèo, nhưng lúc đó chúng ta rất quý nhau. Về sau, tôi vào Đại học Sư phạm, anh ra trường Mỹ Thuật và rời Huế nên thỉnh thoảng mới gặp nhau. Trong các bài viết của tôi về thơ Huế, tôi luôn nhắc đến giai đoạn chúng ta làm thơ cùng Cao Hoàng Nhân. Sau 1975, thỉnh thoảng tôi gặp lại anh, có lúc ở Ngã tư Phú Nhuận, có lúc ở tòa soạn báo Lao Động, cũng có lúc giải khát với Trịnh Công Sơn ở Hội Văn nghệ TP HCM. Tôi mừng anh là một sĩ quan chiến tranh chính trị của quân đội VNCH cũ mà hội nhập được một cách dễ dàng với cuộc sống của Sài Gòn đổi thành TP HCM. Anh có cuộc sống mới khá sung túc, làm việc có hiệu quả, nổi danh họa, cũng nổi danh viết, lại có bà vợ trẻ hơn 40 tuổi, có thêm con trai. Sau ngày bà Điềm Phùng Thị về Huế và sau mấy cái tang Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ, chúng ta gặp nhau luôn. Ta chơi với nhau vì tình bạn, và cùng vì chung sự quý mến những tài năng văn nghệ của các nhân tài quê vợ (đã quá cố) của anh. Anh mời tôi cộng tác với anh làm cuốn sách Trịnh Công Sơn (1939-2001), cuộc đời, âm nhạc, thơ, hội họa và suy tưởng (Nxb Văn Nghệ TP HCM, 2002). Thế rồi, qua William Joiner Center, chúng ta có những ngày tháng 4 và 5 -2007 ngao du trên đất Mỹ. Giữa hai người, một kháng chiến chống Mỹ cũ và một cựu sĩ quan tâm lý chiến VNCH làm việc cho Mỹ, tuy quan điểm văn học nghệ thuật có khác nhau nhưng trong đời thường không có gì xung đột với nhau cả. Tôi rất quý NS TCS nên rất quý những bạn bè của Sơn như anh. Thế rồi không hiểu sao…anh đi dựng lên món quà “lịch sử” cúng giỗ lần thứ tám hương hồn NS TCS - người bạn quý của chúng ta làm cho tôi vô cùng sửng sốt. * Anh Trịnh Cung, Với bài “Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị” đăng trên trang Web: damau.org/archives/5055 ngày 1-4-2009), anh cho biết “…bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào điều tốt đẹp của sự thật.” với mục đích “cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS”. Anh đánh giá cao những gì anh nung nấu 30 năm qua và anh sẵn sàng chấp nhận phải trả giá cho sự công bố ấy. Anh tự bạch: “Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá”. Nhưng dù sao, sau khi công bố những gì anh nung nấu 30 năm qua, anh cũng nhũn nhặn lịch sự kêu gọi: “Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện”. Vì anh yêu cầu, vì lời kêu gọi của bạn, tôi phải bỏ rất nhiều công sức để viết lá thư nầy. Trước tiên tôi xin anh, xin độc giả gần xa, bạn bè thân quen cũ mới cho phép tôi góp ý, phản biện bài viết của anh Trịnh Cung với các lưu ý sau: Một, một người cầm bút chân chính không được dẫn chuyện riêng, đời tư của người khác, đặc biệt là chuyện của bạn bè trong đời thường vào chuyện chính trị, chuyện công. Nhưng vì anh Trịnh Cung không thực hiện điều nên tránh đó, nên khi góp ý, phản biện những gì anh đã viết trong bài Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị, buộc lòng tôi “đạp gai phải lấy gai mà lể”, tôi có sử dụng nhiều hồi ức, nhièu kỷ niệm giữa những người bạn Trịnh Cung mà cũng là bạn của NS TCS và bạn tôi được anh nêu tên trong bài của anh; Hai, ngoài bài Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị, tôi sử dụng thêm nhiều bài khác mà anh Trịnh Cung đã viết, đã nói, đã trả lời báo chí trước đó; Ba, để “đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết” của anh “được hoàn hảo hơn” [1], tôi phải sử dụng phương pháp bình luận sử học, bình luận từng phần một bài viết của họa sĩ Trịnh Cung. Vì thế cái thư nầy khá dài, mong Trịnh Cung và bạn đọc kiên nhẫn. * 1. Trịnh Cung viết: “Vào năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu lòng của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi bộ từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi: “Cậu vào chiến khu với mình đi, có người dẫn đường đang chờ”. Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt. Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Phòng vì được Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ” [2] “Để thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên này cầu Kiệu và nói với anh:”Ông thấy con mình vừa đầy năm, bà xã còn quá trẻ và yếu đuối, làm sao mình bỏ nhà đi vào căn cứ với bạn được. Hơn nữa mình không đồng ý cách giết người của họ ở Huế hôm Tết Mậu Thân… thôi chúc bạn lên đường may mắn!”. Thế nhưng, sự việc sau đó lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm”. “Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn”. NĐX bình luận: Như trên đã dẫn, mục đích bài viết của anh là để “cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS”. Mối quan hệ đầu tiên anh nhấn mạnh đến là NS TCS có người em rể Ngô Kha là cơ sở của Việt Cộng ở Huế, Sài Gòn. Chính Ngô Kha, sau buổi tiệc đầy năm con của anh, rủ anh vào chiến khu với Ngô Kha. Chuyện quan trọng ấy chỉ có hai người biết. Nay Ngô Kha đã bị thủ tiêu, không thể gọi hồn dậy được đẻ hỏi, vì thế phải tin lời của Trịnh Cung. Với tư cách một người bạn của Ngô Kha, một người đã có nhiều năm hoạt động ở đô thị, tôi thấy thông tin nầy của anh gợi lên nhièu điều khó hiểu. - Ngô Kha là một thầy giáo, đỗ Cử nhân Luật, hoạt động chống chính quyền Sài Gòn lâu năm (ít nhất là từ 1966 đến 1971), sao lại thơ ngây đến mức rủ một sĩ quan chiến tranh chính trị của VNCH chưa từng có biểu hiện gì là có cảm tình với MTGP cả vào chiến khu? Nếu thơ ngây như thế thì có lẽ Ngô Kha đã mời nhiều người đã từng tham gia tranh đấu từ 1963 đến 1971 có biểu hiện “thân cộng” hơn là Trịnh Cung. Nhưng tôi chưa nghe Ngô Kha rủ ai cả. Và, hoạt động “nằm vùng” mà thơ ngây đến như thế thì có lẽ Ngô Kha đã bị bắt từ lâu rồi chứ không đợi chi đến năm 1971 vẫn còn được tự do đi ăn đầy năm con gái Trịnh Cung; - Vì sao sau khi gặp Trịnh Cung, Ngô Kha - như Trịnh Cung viết: “Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm”. Lý do? Phải chăng vì đã lỡ rủ Trịnh Cung và bị Trinh Cung từ chối nên sợ lộ nên phải bỏ chuyện lên chiến khu từ Sài Gòn? - Sau khi biết chắc Ngô Kha có quan hệ với MTGP, Trịnh Cung có đi báo với những người thân quen của Trịnh Cung đang làm mật thám cho chính phủ Thiệu Kỳ không ? - Phải chăng sau đó Ngô Kha bị Liên Thành bắt và thủ tiêu từ nguồn tin đáng tin cậy của họa sĩ Trinh Cung? Sự thật như thế nào chỉ có Trịnh Cung biết. Nhưng với kinh nghiệm tranh đấu ở đô thị đọc bài của Trịnh Cung trong đầu tôi không thể không đặt ra những thắc mắc ấy. Giả dụ như Ngô Kha thực sự là cơ sở nội thành của MTGP, nhưng nếu không có tài liệu không ai dám qui kết Thúy - vợ Ngô Kha, cũng là cơ sở của MTGP hoặc có quan hệ với MTGP. Huống chi NS TCS là anh của Thúy, anh vợ của Ngô Kha thì có liên quan gì đến chuyện Ngô Kha hoạt động cho MTGP? Ở miền Nam, thiếu gì những gia đình anh là sĩ quan VNCH, em là Việt Cộng nằm vùng. (Ví dụ như gia đình tôi). Những người ấy đường ai nấy đi, có liên quan gì với nhau đâu. Huống chi Ngô Kha chỉ là em rể của NS TCS. Trịnh Cung dẫn chuyện Ngô Kha để ép NS TCS có liên quan đến MTGP gượng gạo quá. Ai mà tin được cái lý lẽ trẻ con, dễ dãi đến thế của anh. Hơn nữa, nếu dùng phương pháp đặt vào miệng những người đã chết những thông tin bịa đặt theo ý mình như cách làm của Trịnh Cung, thì tôi có thể cung cấp cho giới viết tiểu sử, viết chân dung họa sĩ Trịnh Cung những chuyện sau: “Năm 1982, tôi được Thành ủy Huế cử vào TP HCM trưng bày giới thiệu văn hóa Huế ở Hội chợ tổ chức tại Vườn Tao Đàn cũ. (chắc bác sĩ Trương Thìn còn nhớ). Họa sĩ Tôn Thất Văn đến giúp tôi trang trí cho gian hàng Huế. Trong khi làm việc tôi hỏi: “Lúc nầy Trịnh Cung làm ăn ra sao. Tôi muốn gặp để thăm ông bạn làm thơ của tôi năm xưa?” Tôn Thất Văn bảo tôi “Anh ta đi học tập cải tạo mới về được mấy năm. Hiện nay đang loay hoay kiếm sống. Nhưng mà ông không nên chơi với cái anh chàng lừa thầy phản bạn ấy làm gì. Chinh Trịnh Cung là người đã từng tìm cách lật đổ thầy Tôn Thất Đào ở trường Mỹ thuật Huế, người đã thừa lệnh Hoàng Đức Nhã vô ra Huế phá anh em Phong trào đúc tượng Phan Bội Châu, và nghe nói cũng chính Trịnh Cung vào Trại Cải tạo đã tố cáo anh em họa sĩ là sĩ quan biệt phái ở Huế mà “trốn cải tạo”.v.v.” Chuyện tôi kể thật giả như thế nào chỉ có Trịnh Cung biết. Nhưng tôi không thể viết những chuyện ấy ra vì Tôn Thất Văn đã không còn ở trên cõi đời nầy để xác nhận cho tôi và tôi cũng không có băng ghi âm để làm bằng chứng. Nhưng nếu Trịnh Cung dựng chuyện cho Ngô Kha như trên được thì tôi cũng có thể công bố những gì Tôn Thất Văn đã nói với tôi năm 1982 như trên được. Trịnh Cung nghĩ sao? 2. Trịnh Cung viết: “Với bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn còn hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ tình cảm hồn nhiên hay hoa mỹ hơn, đấy là ý thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đòi hoà bình đậm tính nhân bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như TCS, thì chi tiết sau đây đã được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đã xác nhận lại với tác giả bài viết này như sau: “Vào đêm ngày 29-5-1966, trên đường Trần Bình Trọng-Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo), Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đã chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự chọn lựa rất quyết đoán và hợp ý với 3 bạn đồng hành với mình: “Không có con đường nào khác cho anh em mình ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam!”. Vậy là đã quá rõ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!” NĐX bình luận: Thực chất sự kiện Trịnh Cung nêu trên như thế nào tôi đã viết trong bài Vô tình Trịnh Công Sơn có mặt trong những bước ngoặt đời tôi, (Trịnh Công Sơn có một thời như thế, Nxb Văn Học & TTNCQH, 2002, tr. 127-128). Tôi xin dẫn lại như sau: “Sắp lại cuộc cờ: Cuối tháng 4-1966, phong trào đấu tranh ở Huế cử tôi và Trần Duy Thọ (đã mất) lên Cao nguyên bàn biện pháp phối hợp với Phong trào ở Đà Lạt (do anh Hồ Hữu Nhật cầm đầu). Làm việc xong, vào đêm 30 tháng 4, mấy người bạn Huế đang có mặt ở Đà Lạt rủ nhau đi dạo phố đêm. Xuất phát từ một biệt thự của chi Sâm trên đường Trần Bình Trọng, vòng qua đồi Nhà thương để hướng lên phía phố. Ánh điện nhập nhòe trong sương mù mát dịu làm cho chúng tôi tách mình ra khỏi cái nóng bỏng của cuộc tranh đấu đang diễn ra suốt hai tháng qua ở miền Trung. Những người bạn Huế đêm ấy có Nguyễn Ngọc Lan, Trần Trọng Thức, Trịnh Công Sơn, chị Sâm (chủ biệt thự) và một ca sĩ mà sau này tôi được biết là Khánh Ly. Lúc ấy bài Tuổi đá buồn của Trịnh Công Sơn đang được ưa thích. Vừa đi Sơn vừa hát khe khẻ và bọn tôi hát theo. Cái hồn của bài nhạc gợi cho chúng tôi phải đề cập đến sự tàn bạo của cuộc chiến tranh của Mỹ đang diễn ra ở Việt Nam. Nhạc của Sơn nhưng vấn đề của bài nhạc là của cả thế hệ sống ở đô thị chúng tôi (theo cách nghĩ của tôi lúc ấy). Từ mùa hè 1965 chúng tôi đã theo khẩu hiệu trước Morin Huế “To be or not to be” (Sống hay là chết), “Không thể lấy tuổi trẻ Việt Nam làm củi đốt cho lò lửa chiến tranh”. Càng tranh đấu ở đô thị thì cuộc chiến càng diễn ra ác liệt ở nông thôn và rừng núi. Nói đến chuyện chiến tranh là nói đến sự bất lực của mình. Trịnh Công Sơn vừa đi vừa bảo chúng tôi: -“Không ai hiểu được sự bất lực của chúng ta bằng chính chúng ta”. L.m. Nguyễn Ngọc Lan tiếp lời: -“Bây giờ không còn con đường nào khác là con đường của Mặt trận Giải phóng”. Trịnh Công Sơn: -“Có lẽ!”. Cho đến lúc đó tôi vẫn còn “thuần túy” là một sinh viên Phật tử, chưa hề có một tiếp xúc nào với cơ sở của Mặt trận Giải phóng. Nhưng không hiểu sao tôi cứ bị báo chí Sài Gòn và nhiều bạn bè nghi tôi là người của Mặt trận. Do đó mỗi khi nghe ai đề cập đến Mặt trận Giải phóng là tôi liền nghĩ họ nói để thăm dò tôi và tôi phản ứng lại bằng cách tảng lờ. Tuy nhiên, đêm hôm đó tôi không thể tảng lờ được trước nhận định của L.m. Nguyễn Ngọc Lan và Trịnh Công Sơn. Tôi không biểu đồng tình với hai người ấy nhưng hai chữ Mặt trận Giải phóng qua miệng hai người ấy đã ẩn sâu vào tâm trí tôi. Một ánh lửa lóe lên ở cuối đường hầm của cuộc đấu tranh đô thị”. Câu chuyện chỉ có thế. Chuyện tôi kể và in thành sách lúc Nguyễn Ngọc Lan còn tại thế. Ngày nay, Trân Trọng Thức còn đó, ca sĩ Khánh Ly còn bên kia. Mà có gì quan trọng đâu? Một ý kiến tản mạn dọc đường, làm gì có chuyện như anh đã tô màu phóng to lên trong bài viết thành chuyện chúng tôi “đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước”. Cuộc tranh đấu năm 1966 bị dìm trong biển máu, “con đường của lực lượng thứ ba” đã tắt, tất cả những người tham gian tranh đấu không chịu đầu hàng quân đội Thiệu Kỳ đều có ý nghĩ như L.m. Nguyễn Ngọc Lan: -“Bây giờ không còn con đường nào khác là con đường của Mặt trận Giải phóng”. Trịnh Cung vin vào ý kiến “Có lẽ!” của NS TCS mà khẳng định rằng Trịnh Công Sơn là hoạt động cho MTGP là chụp mũ một cách dễ dãi quá! Mà cần gì phải bịa đặt, lượm lặt những thông tin rời rạc rồi kết lại thành chuỗi chứng minh “TCS thiên Cộng”, “Trịnh Công Sơn hoạt động cho MTGP”. Chỉ cần nghe lại các Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam (1968), Ta Phải Thấy Mặt Trời (1969), Phụ Khúc Da Vàng (1972), trong những tập này nhiều bài mang tính, và dùng cả từ “cách mạng” cũng có thể thấy rõ khuynh hướng nghiêng về phía MTGP của Trịnh Công Sơn rồi. Cũng giống như Jean Paul Sartre chống chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Có ai bảo J.P.Sartre là cơ sở của MTGP đâu? Thầy Nhất Hạnh với Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện [3], Phạm Duy với Kỷ vật cho em cũng “ thiên Cộng” sao ? Và bản thân tôi như anh đã biết với Để lại cho em (lời Tâm ca số 5), Nhân danh, Chuyện hai người lính (thơ NĐX, được Phạm Duy phổ nhạc), nhiều người nghĩ tôi hoạt động cho MTGP nhưng lúc làm các bài thơ đó nào tôi có biết gì về MTGP đâu! - Vừa rồi có người ngồi bên quán cà-phê bên đầu cầu Trường Tiền đọc bài viết của anh, họ đặt câu hỏi: “So với nhiều họa sĩ trong Hội họa sĩ Trẻ Sài Gòn lúc đó, Trịnh Cung không có gì nổi trội lắm, vì lý do gì mà anh ấy lại được:“Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ” ? Chắc họa sĩ trẻ Trịnh Cung có công gì đó với chính quyền thân Mỹ anh mới được ưu ái đến thế chứ?” Tôi phản ảnh lại để anh rõ. Nếu có dịp anh nên giải đáp thắc mắc ấy. Anh Trịnh Cung, Như anh đã biết, hoạt động cho MTGP vô cùng nguy hiểm đến sự nghiệp, đến tánh mạng, không lương tiền, đói, khát, bệnh tật, nhiều khi còn bị chính người của MTGP nghi ngờ nữa, thế mà sao giới trí thức có tư duy dân tộc lúc ấy lại hướng về MTGP đông đến thế? Trong bài viết của anh, phần lớn những người tai mắt đương thời đều hoạt động cho MTGP cả! Vì lý do gì ? Có phải vì khát vọng hòa bình, chấm dứt chiển tranh, thống nhất đất nước, thống nhất dân tộc không? Có phải vì tiếng nói của lương tri không? Bất cứ ai quen biết anh lúc ấy đều có thể trả lời câu hỏi đó một cách dễ dàng. Nhưng anh thì sao? Câu chuyện “con đường của MTGP” giữa chúng tôi nêu trên anh mới nghe lõm bõm gần đây thôi. Anh cũng mới hỏi tôi hồi cuối tháng 3-2009 vừa rồi. Thông tin “thân cộng” nầy của NS TCS chắc không nằm trong những gì anh đã nung nấu 30 năm qua phải không ? 3. Trịnh Cung viết:“Những ngày trước 30-4-75, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Người thân cộng thì hí hửng, người quốc gia thì lo âu và tìm đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà TCS để tìm một thông tin tốt lành vì anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được gì vì TCS từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu-Kỳ, em trai TCS là đại uý Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1). Thế là xong, TCS sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn Văn Thiệu để thương lượng hoà bình với quân GP đang bao vây Sài Gòn và doạ sẽ tắm máu Sài Gòn nếu VNCH không buông súng.” NĐX bình luận: Anh đã qui kết cho NS TCS là hoạt động MTGP vì có em rể Ngô Kha hoạt động cho MTGP đã bị thủ tiêu, “đã cùng nhau (Nguyễn Ngọc Lan, Trần Trọng Thức, Nguyễn Đắc Xuân…) bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước”.v.v thế vì sao đến lúc MTGP sắp thắng lợi anh không đến nhờ NS TCS -người của MTGP, giúp đỡ che chở cho anh với chính quyền mới mà lại đến để “tìm một thông tin tốt” để tìm đường bỏ nước “ra đi” và anh đã hết sức thất vọng vì “TCS từ chối ra đi”. Từ ý thức chính trị như thế đến hành động như thế anh có thơ ngây, mâu thuẫn không ? Như trên đã bình luận, năm 1971, Ngô Kha hoạt động cho MTGP mời một anh sĩ quan VNCH vào chiến khu. Trước 30-4-1975, họa sĩ Trịnh Cung- một anh sĩ quan VNCH chạy tới nhà một người hoạt động cho MTGP để tìm đường bỏ nước ra đi. Không thể nói là thơ ngây mà phải nói là ấu trĩ, khôi hài. Anh hạ uy tín của NS TCS bằng cách giải thích việc NS TCS từ chối ra đi vì “tham vọng chính trị” vì “sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh”. Anh cho biết chuyện nầy do kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống đạo diễn. Đối với tôi, KTS Đống không phải là người xa lạ, ngay bây giờ tôi có thể gặp anh ấy dễ dàng, tôi có thể “sếc” lại chuyện đó thực hư như thế nào, nhưng tôi không quan tâm nên không cần “sếc”. Bởi vì tôi biết rất rõ vì sao NS TCS không bỏ nước ra đi ngay trước 30-4-1975, sau đó và mãi mãi cũng không ra đi, không ra đi dù tất cả người thân trong gia đình (trừ bác Thanh - thân mẫu của nhạc sĩ) đã lần lược ra đi. Vì một lý do rất đơn giản: Từ sau năm 1972, Mỹ đã bắt tay Trung Quốc, họ không cần dùng Miền Nam Việt Nam làm “tiền đồn chống Cộng nữa, ở lại Việt Nam thiệt hại về người và của quá, lại bị dân Mỹ phản đối kịch liệt nên họ buộc lòng phải ký Hiệp định Paris 1973, rút quân, giao cuộc chiến tranh chống Cộng lại cho VNCH. Để tránh cuộc chiến người trong một nước giết nhau, NS TCS hoan nghinh chủ trương hòa hợp, hòa giải dân tộc của MTGP, anh đã sáng tác các bài Huế Sàigòn Hà Nội, Nối vòng tay lớn để hô hào, cổ vũ cho tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc. Các bài nhạc được quần chúng hết sức hoan nghênh. Tôi chưa hề được biết có dư luận nào phản đối các bài nhạc đó. Ngày 30-4-1975, chiến tranh chấm dứt tại Sài Gòn mà không đổ máu, ước mơ trong các bài hát của NS TCS đã trở thành hiện thực. Có hạnh phúc nào bằng? Rồi ngay trong cái giờ phút lịch sử kết thúc 30 năm chiến tranh Việt Nam vô cùng thiêng liêng đó, NS TCS có mặt ở Đài Phát thanh Sài Gòn hát Nối vòng tay lớn cho toàn dân nghe, cho thế giới biết, tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc của Việt Nam. Vinh dự biết bao! Thế hệ chúng tôi tự hào có NS TCS phát lên tiếng gọi hòa hợp hòa giải dân tộc đầu tiên ngay sau khi chấm dứt chiến tranh. Làm một người nghệ sĩ, NS TCS chỉ cần sự kiện sáng tác Nối vòng tay lớn, hát Nối vòng tay lớn như thế là đã có tên trong bảng đồng bia đá rồi. Trịnh Cung - mang tâm cảnh của một người lính thất trận làm sao hiểu được hạnh phúc của NS TCS trong giờ phút vinh quang ấy nên mới đến nhà Trịnh Công Sơn tìm đường chạy ra nước ngoài. Xin hỏi Trịnh Cung, giả dụ như lúc đó NS TCS chạy ra nước ngoài với anh thì Sơn sẽ đạt được điều gì? Nếu ra nước ngoài mà vinh quang hơn tại sao sau nầy anh có nhiều chuyến đi Mỹ anh không xin tỵ nạn bên đó mà lại cứ về Việt Nam? Tư tưởng nhân bản nhất của NS TCS là tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc. Yêu quý NS TCS là không ngừng hoạt động cổ vũ tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc của nhạc sĩ. Bao giờ anh Trịnh Cung chưa cởi bỏ được tâm trạng hối tiếc mất chế độ cũ thì anh không thể nào hiểu được Trịnh Công Sơn - người anh khâm phục, mến mộ và là bạn thân nhất của anh. Anh đừng nên lấy những chức nầy, cấp nọ tầm thường của cuộc đời nhiễu nhương vừa qua để hạ thấp vai trò lịch sử của NS TCS. Để anh hiểu rõ hơn lý do vì sao NS TCS không ra nước ngoài, tôi xin trích một đoạn trong bài phỏng vấn Với Trịnh Công Sơn một buổi đầu xuân (Mậu Dần, 1998). Toàn bài phỏng vấn đã được Trịnh Công Sơn đọc lại trước khi đăng báo Lao Động ngày 14-2-1998, và đã đăng lại trong cuốn Trịnh Công Sơn có một thời như thế (Văn Hoc 2002, tr.13-16) của tôi. [...] NĐX: [...] Anh có cảm tưởng gì trong những ngày ở Singapore cũng như những nước đã sống qua? TCS: Theo mình, Singapore cũng như những nước phát triển khác, rất văn minh, rất hiện đại, hoàn chỉnh đến mức không gây cho mình một cảm xúc nào nữa. Do đó nó xa lạ với mình. Mới qua Singapore hai ngày mình đã muốn về VN ngay, nhưng cận Tết không đổi vé được. Nằm một tuần ở Singapore mình nhớ nhà quá sức! Nhớ dáng dấp VN, da thịt VN, giọng nói VN… NĐX: Đó cũng là tâm trạng của nhiều người VN ở nước ngoài lâu nay. Do thiếu quê hương nên nhiều nghệ sĩ rất giỏi vẫn không có nhiều sáng tác hay. Anh nghĩ gì về quê hương trong những ngày này? TCS: Mình vừa vượt qua được cơn bạo bệnh, mừng được thấy đất nước đổi mới từng ngày. Có sống qua những ngày gian khổ khó khăn giờ đây mới thấy được ý nghĩa của những gì có được. Một thế hệ mới đang được đào tạo cho thế kỷ XXI. Mình mong được làm người nghệ sĩ nối hai thế kỷ. NĐX: Anh có nhớ cái thuở bọn mình lớn lên trong chiến tranh? TCS: Nếu được đào tạo như bây giờ thì chắc chắn bọn mình không phải như bây giờ. Chính trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, mỗi con người trong chúng ta phải tự đi tìm cho mình một cách thế riêng, tự khẳng định mình.” NS TCS có nói thêm với tôi một câu nữa mà lúc đó tôi không tiện viết ra: “Thú thật, mình xa cái đất nước nầy mình chịu không nổi và cũng không sáng tác được ông à ! Bọn mình mà sống sướng chưa chắc đã làm được như đã làm ! Mình sáng tác trong hoàn cảnh khó khăn, trong lúc vui buồn với đất nước. Sống sướng về vật chất chưa chắc đã sáng tác được. Sống mà không sáng tác được làm sao sống ông ? Các em mình chúng đi hết rồi. Nếu mình bị bắt ra nước ngoài chắc mình phải vượt biên ngược về thôi !”. Suốt mấy chục năm chơi với NS TCS có bao giờ Trịnh Cung được nghe một lời tâm sự như thế không ? Tôi đoan chắc chưa bao giờ. 4. Trịnh Cung viết: “Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh Sài Gòn để hát bài Nối Vòng Tay Lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS, tác giả của ca khúc có tính dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía VNCH, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: ”Mày có tư cách gì mà hát ở đây!”… NĐX bình luận: Với ba sự kiện nêu trên, anh cố chứng minh NS TCS là người của MTGP hoặc có nhiều sáng tác nghiêng về MTGP. Đên đây anh lại viết “Từ sự kiện tại Đà Lạt (4-1966) mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn” Như vậy anh đã mâu thuẫn với anh, trái với mục đích anh muốn đạt đến là “làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS”. Hay anh phải bất chấp sự mâu thuẫn ấy để có đủ lý lẽ giải thích sự việc NS TCS vào Đài Phát thanh Sài Gòn hát Nối vòng tay lớn trưa hôm 30-4-1975 để “bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: “Mày có tư cách gì mà hát ở đây!”? Không rõ ai đã cung cấp thông tin nầy cho Trịnh Cung, theo tôi hồi cuối năm 1974, Tôn Thất Lập, Nguyễn Xuân Lập và một số thanh niên sinh viên Sài Gòn Huế gặp nhau ở Hà Nội. Cuối tháng 3-1975 Tôn Thất Lập và Võ Như Lanh có mặt ở Paris. Ngày Giải phóng miền Nam 30-4-1975, Tôn Thất Lập đang ở Pháp. Và cũng được biết đến tháng 8-1975 Tôn Thất Lập mới về nước. Nên không thể có chuyện Tôn Thất Lập tàng hình về Sài Gòn đuổi Trịnh Công Sơn như anh viết. Ngày 7-4-2009, trả lời Đài BBC, anh khẳng định những gì anh viết trong bài Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị là đúng sự thực và anh chịu trách nhiệm. Anh chịu trách nhiệm về sự bịa đặt nhạc sĩ Tôn Thất Lập “đuổi Trịnh Công Sơn ra khỏi phòng thu” trưa ngày 30-4-1975 như thế nào? Anh xuyên tạc hạ nhục NS TCS vào đúng cái giờ phút vinh dự nhất, hạnh phúc nhất của cuộc đời Trịnh Công Sơn. Đồng thời anh cũng gây một sự mất mác giữa hai nhạc sĩ cùng quê, cùng thời, cùng là bạn đồng hành trên con đường giải phóng dân tộc. Đến bao giờ anh mới có lời xin lỗi công khai về sự bịa đặt khốn khổ nầy ? Nếu anh không có lời xin lỗi thích đáng tôi tin những bạn bè, những người yêu Việt Nam từ suối nguồn âm nhạc Trịnh Công Sơn sẽ đưa anh ra tòa. 5. Trịnh Cung viết: “Trở lại sống trong căn hộ cũ 11 Nguyễn Trường Tộ - Huế, TCS quây quần với bạn bè cũ và mới không được bao lâu thì cả thành phố Huế lên cơn sốt đả đảo TCS và Phạm Duy. Các biểu ngữ được giăng ở các trường đại học và TCS phải lên Đài truyền hình Huế đọc bài tự kiểm điểm. Sự cố lần này cũng lại do một nhạc sĩ tổ chức, nhạc sĩ Trần Hoàn, Giám đốc Sở VH&TT tỉnh Bình Trị Thiên. Thế là TCS đã tránh được vỏ dưa SG nay lại găp vỏ dừa Huế! Sự bé cái lầm lần này, có lẽ do TCS đã kỳ vọng ở bạn mình quá nhiều nhưng thực tế vai trò trong lực lượng tiếp quản Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân rất khiêm tốn, chính họ cũng đang phải cố gắng phấn đấu để được kết nạp vào đảng thì làm sao bao che cho tác giả của 2 ca khúc từng bị người CSVN kết án (Ca khúc “Gia Tài Của Mẹ” với câu: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” đã xúc phạm đến đại cuộc chống Mỹ cứu nước của người CSVN và ca khúc “Cho Một Người Nằm Xuống” để thương tiếc Lưu Kim Cương - đại tá không lực VNCH chết bởi đạn của quân GPMN - người bạn một thời đã từng dùng máy bay không quân đưa TCS lên Đà Lạt thăm Khánh Ly hoặc ngược lại, đón Khánh Ly về hát với TCS) tại Sài Gòn?” “Lần này ở Huế, tính tẩy chay TCS nghiêm trọng và công khai hơn hẳn vụ ở Đài Phát Thanh SG vừa qua. Tình bạn cũ trong trái tim TCS sụp đổ đã đành mà giấc mơ “Khi đất nước tôi thanh bình/Tôi sẽ đi thăm…” tưởng dễ thực hiện của anh cũng bị dập tắt. Những tháng ngày tiếp theo ở Huế, TCS sống như một con tin trong Hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên, thường xuyên được tổ chức bố trí đi lao động thực tế trên những cánh đồng vào mùa khô cũng như mùa lụt, không hơn gì một người phải chịu cải tạo”. NĐX bình luận: Đọc đoạn trích nầy, tôi không ngạc nhiên, vì cơ bản nội dung của đoạn trích anh đã nói trong buổi sinh hoạt tưởng niệm Trịnh Công Sơn tổ chức vào ngày 4-4-2001 tại phòng sinh hoạt báo Người Việt, Little Sàigòn, nam California và được tạp chí Văn số 53&54 (tháng 5&6 -2001, đặc biệt về Trịnh Công Sơn), in lại từ tr. 77 đến tr. 83. Có lẽ anh quên anh đã nói vung mạng hôm đó như thế nào nên tôi cũng chép lại đây để anh có dịp so sánh cái “một nửa sự thật” nói hồi thang 4 - 2001 và “toàn bộ sự thật” anh vừa công bố hồi đàu tháng 4-2009 nầy như thế nào. “Sau đó Sơn phải về Huế để tìm một nơi nương tựa bởi vì ở đó Sơn có nhiều anh em. Anh hy vọng là họ sẽ giúp đỡ nình, , nhưng, tránh võ (sic) dưa gặp võ (sic) dừa, ở đây Sơn còn bị nặng hơn nữa là bị tố cáo tại các trường học, các biểu ngữ giăng lên. Sơn phải lên đài truyền hình Huế nhận lỗi của mình - mà người ta gọi là bài thu hoạch. Sơn rất khéo léo trong bài nhận lỗi đó. Chính Sơn kể cho tôi nghe - Hoàng Phủ Ngọc Tường không đồng ý bài đó, nói phải viết lại vì chưa thành thật. Bạn thấy chưa ? Người ta quyết liệt ghê gớm lắm trong sư kiểm soát. [...] Sau đó, Sơn phải đi thực tế, tức là đi để biết người nông dân cày bừa cực khổ như thế nào. Sơn đi trên những cánh đồng còn rải rác những chông mìn. Sơn đã thoát chết trong một lần; một con trâu đã cưứ Sơn khi nó đạp quả mìn mà đáng lẽ Sơn đã đạp”. (TC Văn đã dẫn tr.80-81). NĐX bình luận tiếp: Những gì anh nói, anh viết trong hai lần trích trên anh cho là “sự thực” cả. Chuyện anh kể (nếu có) xảy ra trong thời gian anh đang bóc lịch trong Trại Cải tạo. Ai đã kể lại cho anh nghe như thế? Anh đã “sếc” lại chưa? Hay anh lại đáp “Chính Trịnh Công Sơn đã kể với anh? Anh không trưng dẫn được người kể, cũng chưa “sếc” lại, thì có thể xem là sự thực được không? Trong hai lần nói và viết cách nhau 8 năm ấy, lần nào là “thật” hơn lần nào? Hay một ai đó mang tâm cảnh chống chính thể mới đã nghe lóm ở đâu đó rồi kể lại với anh một cách ác ý, bịa đặt, xuyên tạc. Anh cũng mang tâm địa đồng điệu với người kể nên vớ ngay và bóp méo công bố vung vít ở những nơi anh nghĩ là không có người tranh cãi với anh. Sự thực đầu đuôi câu chuyện nầy như thế nào tôi cũng đã viết trong bài Tâm tình một người nghiên cứu Huế với thiên tài âm nhạc Trịnh Công Sơn đăng trong sách Trịnh Công Sơn có một thời như thế (Nxb Văn Học và TTNCQH, 2002, tr. 95-119). Có lẽ anh chưa đọc, tôi trích lại tặng anh sau đây để anh có dịp suy ngẫm:
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 14:27:24 GMT -5
“Công” nhiều hơn “tội” (nếu có). Trước ngày thống nhất đất nước nhiều sinh viên Huế bị đánh bật khỏi Huế, hoặc bị địch bắt đưa vào giam ở các tỉnh phía Nam hoặc bị đưa ra đảo cầm tù. Sau ngày giải phóng, những người có trách nhiệm với Phong trào sinh viên học sinh Huế đánh điện mời anh em về Huế. Hai người về trước là hoa sĩ Bửu Chỉ và sinh viên Luật Nguyễn Duy Hiền. Có lẽ do tác động của anh Nguyễn Khoa Điềm (Phó ban Tuyên giáo Thành ủy Huế) và Hoàng Phủ Ngọc Tường (Trưởng ty Thông tin Văn hoá Quảng Trị vừa về công tác ở Huế) nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng được mời về Huế để lập Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế. Như thế Trịnh Công Sơn thoát được cái “không khí nghi kỵ” ở Sài Gòn thời gian sau tháng 5-1975. Rồi một hôm…đi ngang qua trường Đại học Sư phạm, tôi thấy mặt trước trường treo một tấm banderole to tướng mang dòng chữ xanh rờn: “Hạ bệ Phạm Duy-Hoàng Thi Thơ và Trịnh Công Sơn”. Tôi hơi bất ngờ nhưng rồi tôi cũng hiểu được. Tôi nghĩ ngay đến mối quan hệ giữa một số anh em Phong trào ở Đại học Sư phạm với những người mà sau nầy gọi là “các ông Ba mươi” ở Sài Gòn. Tôi hiểu được chuyện quá khích đó một phần nhờ vào những hiểu biết Phong trào Vệ binh đỏ của Trung Quốc mà tôi đã thu thập được trong thời gian nằm chữa bệnh ở Quế Lâm. Khẩu hiệu tranh đấu treo lên thì rất dễ nhưng lấy xuống thì cả một vấn đề. Tôi cũng như nhiều người bạn yêu quý Trịnh Công Sơn thấy việc sinh viên Đại học Sư phạm Huế đặt thái độ chính trị của Trịnh Công Sơn ngang với Phạm Duy và Hoàng Thi Thơ là không đúng với thực tế nhưng không ai dám lên tiếng bảo vệ. Bản thân tôi tuy là Đảng viên nhưng lý lịch quan hệ lung tung, nếu phát biểu “ngoài luồng” là bị qui là “xét lại” ngay. Vì thế có nhiều người đến Hội Văn nghệ than phiền với tôi về tấm banderole nêu trên, tôi vẫn ngậm câm. Trịnh Công Sơn rất buồn, không ngờ anh về quê hương lại bị giội một gáo nước lạnh như thế. Một buổi tối, tôi được mời toạ đàm tại Hội Văn Nghệ để trả lời câu hỏi “Trịnh Công Sơn có công hay có tội?” Cuộc toạ đàm hôm ấy tôi còn nhớ rõ có Lê Khắc Cầm (đại diện cho cơ sở trí thức ở Huế), Trần Viết Ngạc (Phụ trách giáo dục) Trần Hoàn (Trưởng ty TTVH), Thanh Hải, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân (các cây bút chủ chốt của Hội Văn Nghệ vừa ở chiến khu về), và một vài người nữa tôi không còn nhớ tên…Tôi không nhớ những ai đã phát biểu lên án và những ai đã bảo vệ cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tôi chỉ nhớ anh em đề cập đến “tội” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là anh đã làm nhạc phản chiến một cách chung chung, không phân biệt được chiến tranh xâm lược và chiến tranh giải phóng dân tộc (bài “Gia Tài Của Mẹ” với câu Hai mươi năm nội chiến từng ngày), thậm chí anh còn làm nhạc ca ngợi địch (bài “Cho Một Người Nằm Xuống thương tiếc Đại tá không quân Sài Gòn Lưu Kim Cương tử trận)…Nhiều người phát biểu biện hộ cho Trịnh Công Sơn:“Đúng là Trịnh Công Sơn đã làm nhiều bản nhạc phản chiến, anh được mệnh danh là người làm nhạc phản chiến số 1 thời ấy giống như Bob Dylan, Joan Baez ở bên Mỹ. Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tự do, anh theo đuổi chủ nghĩa nhân bản chung chung khác chúng ta. Nhưng anh làm nhạc trong vùng tạm chiếm, người nghe nhạc phản chiến của anh là lính Cộng hoà. Rất nhiều lính của Thiệu đã bỏ ngũ vì nghe bản nhạc Người con gái da vàng của anh. Chẳng có người lính cách mạng nào bỏ ngũ vì nghe nhạc của Trịnh Công Sơn cả. Cũng như ngày xưa bên Trung Quốc, Trương Lương thổi sáo đâu phải để cho quân mình buông kiếm ! Đâu phải tự dưng chính quyền Thiệu ra lịnh tịch thu những bài hát của Sơn”. Để minh hoạ cho ý tưởng đó, một anh nào đó (hình như anh Trần Viết Ngạc hay anh Lê Khắc Cầm gì đó tôi không nhớ) lấy trong cặp ra một xấp báo Sài Gòn xuất bản trước tháng 5.1975 có đăng lịnh của Thiệu cấm phổ biến nhạc Trịnh Công Sơn, lịnh cấm mang số 33 ngày 8.2.1969. Xấp tư liệu có sức thuyết phục lớn đối với những người tham dự toạ đàm. Trong không khí dễ cảm thông đó, hình như anh Hoàng Phủi Ngọc Tường đã kể: “Hồi ở trên rừng khi nghe Trịnh Công Sơn sáng tác bài Cho một người nằm xuống thương tiếc Đại tá không quân Sài Gòn Lưu Kim Cương tôi rất tiếc cho Sơn. Sau nầy được biết, trong những năm tháng Sơn trốn lính căng thẳng, Lưu Kim Cương đã tận tình che chở cho Sơn, chính vì cái ơn ấy mà Sơn đã viết bài ấy. Ta nên thông cảm cho hoàn cảnh đặc biệt của một người nghệ sĩ”. Kể “tội” xong, anh em nói đến “công” của Sơn. Trịnh Công Sơn đã cùng với Ngô Kha làm báo Tự Quyết, Mặt Trận Văn Hoá Dân Tộc Miền Trung – do cơ sở của Thành úy Huế tổ chức. Sơn sáng tác nhiều bài nhạc kêu gọi hoà bình hoà hợp dân tộc thống nhất đất nước theo chủ trương của Mặt trận Giải phóng như các bài Hà Nội-Huế-SàiGòn, Nối Vòng Tay Lớn, Ngọn Lửa Thích Chơn Thể… Những bài nhạc nầy có ảnh hưởng tốt đối với các phong trào đấu tranh yêu nước ở các đô thị miền Nam trước ngày đất nước thống nhất. Kết luận của cuộc toạ đàm là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lúc chưa có hoàn cảnh quan hệ với Cách mạng thì có một quan điểm yêu nước chung chung, Sau khi quan hệ với cơ sở cách mạng (trong đó có Ngô Kha), quan điểm lập trường của Trịnh Công Sơn trong giai đoạn cuối của cuộc đấu tranh yêu nước đứng hẵn về phía Cách mạng. Như thế “công” của Trịnh Công Sơn lớn hơn ‘tội” của anh (nếu có). Sau cuộc toạ đàm tổ chức giao cho anh Hoàng Phủ Ngọc Tường- bạn thân của Trịnh Công Sơn, trao đổi với Trịnh Công Sơn viết tự nhận xét mình. Đây là một hình thức kiểm điểm cán bộ - một sinh hoạt thường xuyên của tổ chức cách mạng. Cho đến lúc ấy tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tự kiểm điểm không biết bao nhiều lần. Những bản kiểm điểm nói không đúng vấn đề thường bị viết lại. Chính vì thế mà có người muốn được thông qua đã viết quá về những khuyết nhược điểm của mình để cho xong việc. Với kinh nghiệm ấy anh Tường đã khuyên Trịnh Công Sơn nên làm lẹ đi. Trịnh Công Sơn chưa quen lối sinh hoạt nầy cho nên có ý trách anh Tường “đã ép Trịnh Công Sơn”. Về sau có người khai thác chuyện nầy gây cho quần chúng yêu mến Trịnh Công Sơn ở trong nước và ngoài nước suốt một thời gian dài hiểu lầm anh Tường đến nỗi những người hiểu anh Tường phải đứng ra “làm chứng” cho anh Tường mới dập tắt được sự hiểu lầm ấy. Tôi không nhớ tấm banderole treo trước Đại học Sư phạm được lấy xuống trước hay sau khi có cuộc toạ đàm “Trịnh Công Sơn có công hay có tội”. Nhưng dù sao hai sự kiện ấy cũng có quan hệ với nhau. Nhờ sự đánh giá của cuộc tọa đàm, dư luận trong các cơ quan tư tưởng chính trị (văn hoá văn nghệ) yên tâm về người nhạc sĩ đã có ảnh hưởng lớn trong quần chúng trước tháng 5.1975 ở miền Nam. Đi cải tạo hay đi sản xuất tự túc ? Tôi không rõ căn cứ vào tài liệu nào mà có người (kể cả một người thân nào đó của Trịnh Công Sơn nói trên đài VOA) [4] bảo rằng sau tháng 5-1975, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã bị đi cải tạo ở Thừa Thiên Huế. Nhiều bạn bè của tôi rất có uy tín, rất được tín nhiệm ngày nay hồi ấy cũng đã từng bị đi cải tạo một thời gian. Không riêng gì những người có dính một chút với “ngụy quân ngụy quyền” phải đi cải tạo, hồi còn chiến tranh, nhiều cán bộ đảng viên cách mạng hẵn hoi chỉ vì một câu nói bị hiểu lầm cũng đã phải mang ba-lô vào trại sản xuất kia mà. Cho nên hối ấy, nếu không được Thành ủy Huế và các anh chị em trong Phong trào hiểu Trịnh Công Sơn, Trịnh Công Sơn (với những cái “tội” nêu trên) có bị đi cải tạo ít tuần cũng là chuyện bình thường. May mắn là chuyện ấy không hề xảy ra đối với anh. Các hoạ sĩ Đinh Cường (hiện ở Virginia, Mỹ), hoạ sĩ Tôn Thất Văn (hiện ở Thành phố HCM), nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà dịch thuật Bửu Ý, hoạ sĩ Bửu Chỉ (đang sống ở Huế) rất thân thiết với Trịnh Công Sơn đều khẳng định không có chuyện ấy. Thế mà có người viết: “Vùng kinh tế mới – nơi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bị đày dưới hình thức lao động cải tạo nằm ngay biên giới của tỉnh Quảng Trị. Những ngày lụt nước ngập ngang ngực, ngày nào cũng có người bị chết hoặc bị thương do mìn nổ. Ở đó, một gia đình nông dân có con gái ái mộ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, cho ông mượn trâu để cày bừa…” (Hoàng Dược Thảo, Những sự thật nên viết ra về một thiên tài âm nhạc vừa năm xuống, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn… tài liệu lấy trên Internet, tr.2/7). Nhưng vì sao lại có dư luận ấy? Theo tôi, trừ những người cố tình xuyên tạc sự thực để bôi nhọ Việt Nam sau tháng 5-1975, có lẽ người ta đã hiểu nhầm việc đi lao động sản xuất tự túc là đi cải tạo chăng? Nếu quan niệm đi tham gia lao động sản xuất tự túc là đi cải tạo thì cả Đảng bộ và chính quyền Thừa Thiên Huế lúc ấy đều bị đi cải tạo cả. Thời ấy có ông bà thủ trưởng xuống tận người gác cửa cơ quan nào không đi lao động sản xuất sắn khoai để tự túc một phần lương thực đâu ? Đầu năm 1977, tôi vừa có con đầu lòng, phải đi Bình Điền sản xuất tự túc, chiều về ngồi trong trại nhớ con không cầm được nước mắt. Nhưng nào tôi có xin miễn được đâu ! Đi sản xuất rất vất vả, nhiều nữ giáo viên không biết đi xe đạp, phải nhờ chống “thồ đi thồ về”. Nếu chồng không ‘thồ” được thì phải đi bộ từ bốn năm giờ sáng. Chiều về phải tám chín giờ tối mới lết được đến nhà. Chuyện bắt cả bộ máy nhà nước, sinh viên học sinh, giáo viên…bỏ việc chuyên môn, bỏ việc dạy và học đi phá rừng cuốc rẫy, đào lề đường để trồng khoai sắn sản xuất tự túc là một chủ trương sai lầm [5]. Bây giờ nhớ lại chuyện ấy không ai không chê trách. Nhưng nói chuyện đi sản xuất tự túc là đi lao động cải tạo là hoàn toàn xuyên tạc. Đối với anh em văn nghệ sĩ lúc ấy đi sản xuất tự túc như một cuộc đi chơi. Sắn khoai thu hoạch được không đủ bù vào tiền mua gạo, thức ăn mang theo và tiền mua xăng ô-tô đi sản xuất. Đó là chưa nói đến việc các văn nghệ sĩ không biết làm nông, mùa nắng gây cháy rừng, mùa mưa gây xói mòn sạt lỡ đất đai rất tai hại. Chính nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cùng với các nhà văn nhà thơ Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế (sau năm 1977 là Bình Trị Thiên) đã gây ra vụ cháy rừng thông trong khu vực lăng Minh Mạng. Nếu không nhờ dân và cán bộ đến dập tắt đám cháy kịp thời thì có thể tiêu luôn khu lăng Minh Mạng. May lúc đó xã hội chưa xem trọng di tích văn hoá nên báo chí cho là chuyện bình thường, không một tiếng phê bình. Do đó anh em văn nghệ xem chuyện cháy ấy như một kỷ niệm hồn nhiên của mình. Sau nhiều lần đi sản xuất tự túc, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã khoe với Mai (tức ca sĩ Khánh Ly) trong một lá thư gởi sang Mỹ rằng: “Anh kể cho Mai nghe, bây giờ anh giỏi hơn Mai nhiều. Anh biết trồng khoai, trồng sắn và cấy lúa”. Có điều Trịnh Công Sơn không kể với Khánh Ly là lần đầu đi trồng sắn anh đã gặm cái đầu hom sắn xuống đất nên những cái hom ấy chết khô chứ không mọc được. Ôi còn biết bao chuyện buồn cười trong cái buổi đầu “xây dựng xã hội chủ nghĩa” ở cái đất Cố đô Huế ấy. Mà lạ thật, cuộc sống thiếu thốn mọi bề, nhưng tôi thấy Trịnh Công Sơn rất vui. Vì ai cũng thiếu thốn cả chứ có như “kẻ ăn không hết người lần không ra” như bây giờ đâu ! Tôi còn giữ được mấy tấm ảnh Trịnh Công Sơn chụp hồi đầu năm 1976, trông anh khoẻ và đẹp lắm. Anh sống một mình ở gian nhà cũ 11/3 Nguyễn Trường Tộ, nhưng ít có hôm anh phải ngủ một mình. Không có Ngụy Ngữ thì có Trần Phá Nhạc, không có Tôn Thất Văn thì có Đinh Cường, không có Bửu Ý thì có Định Giang, không có Đặng Ngọc Vịnh thì có Lữ Quỳnh hay một anh chàng Hà Nội nào đó mến mộ Trịnh Công Sơn đi qua Huế ghé thăm anh chơi…Một số bạn mới ái mộ anh cũng thường đến ở với anh như Mạnh Đạt (nhạc sĩ), Vinh Nguyễn (nhà thơ)… Những người mới có gia đình như Hoàng Phủ Ngọc Tường, như tôi (NĐX) thì ít khi đến ngủ với anh, thay vào đó là chúng tôi hay mời anh về nhà ăn cơm. Đi ăn cơm khách nhưng Trịnh Công Sơn không thích ăn mà chỉ thích có một xị “quốc lũi” hay xị rượu trắng Phủ Cam cay cay là thích nhất. Những lúc anh em đi Hà Nội kiếm mua được một chai Vốt-ca của Liên-xô thì quý hoá vô cùng. Quê hương chỉ là “Một cõi đi về” Có thể nói trước ngày đất nước thống nhất hàng chục năm Trịnh Công Sơn đã là một nhạc sĩ rất nổi tiếng. Dù anh phải đi trốn lính, đi tham gia Phong trào tranh đấu hay núp dưới bóng mẹ ở nhà, bao giờ anh cũng được bạn bè và gia đình chăm sóc miếng cơm manh áo hết sức chu đáo. Sau tháng 5-1975, anh được mời về Huế tham gia công tác ở Hội Văn Nghệ, mừng gặp lại bạn bè cũ, mừng đất nước hoà bình thống nhất, vui thì có vui nhưng thật sự đó là một giai đoạn thử thách ghê gớm đối với đời sống của anh. Với lương tháng 64 đồng là cao so với cán bộ [6], nhưng đối với Trịnh Công Sơn, số tiền ấy không đủ để mua thuốc hút và mua rượu cho ba mươi ngày. Bởi thế mỗi tháng thân mẫu anh phải gởi thêm cho anh một chỉ vàng và một vài ký-lô thịt bò thưng [7] hay thịt chà-bông. Sau mỗi lần nhận quà của mẹ, nhà Trịnh Công Sơn liên tiếp có những “tiệc” rượu nhỏ. Tiệc cho đến hôm tiệt hết quà của mẹ gởi mới thôi. Người anh càng ngày càng gầy rộc đi. Bởi thế mỗi năm có đến mấy bận Trịnh Công Sơn phải xin phép vào Thành phố Hồ Chí Minh thăm mẹ. Nói đúng hơn là thăm mẹ để được mẹ bồi dưỡng lấy lại sức khoẻ. Nhiều lần Trịnh Công Sơn vào ở nín trong Thành phố hàng mấy chục ngày, nhân đó anh tiếp xúc với bạn bè, văn nghệ sĩ của Thành phố. Anh gặp lại Phạm Trọng Cầu, Trần Long Ẩn, và quen thêm Hoàng Hiệp, Nguyễn Quang Sáng .v.v. Qua bạn bè, anh biết lãnh đạo của Thành phố cũng có người mến mộ anh. Biết hoàn cảnh của Trịnh Công Sơn ở Huế có nhiều “bất tiện”, vào ra xe cộ khó khăn, anh em gợi ý Trịnh Công Sơn nên xin chuyển công tác vào Thành phố Hồ Chí Minh, anh em sẽ giúp xin lãnh đạo Thành phố chấp nhận anh. Ý kiến đó phù hợp với sự mong muốn của gia đình Trịnh Công Sơn và có lẽ cũng “phù hợp” với ý muốn trả Trịnh Công Sơn lại cho miền Nam của một số người ở Bình Trị Thiên. Vào giữa năm 1978, tôi không nhớ vào tháng nào, Trịnh Công Sơn về Huế làm hồ sơ chuyển công tác. Nghe tin đó chúng tôi hết sức tiếc, nhưng cũng nhận thấy như thế là hợp lý, Trịnh Công Sơn không thể kéo dài cuộc sống bấp bênh “ăn ít uống nhiều” ở gian nhà nhiều kỷ niệm trước nhà thờ Phủ Cam lâu hơn nữa. Và, thân mẫu của anh cũng không thể rút ruột kéo dài tình trạng phải gởi cho con trai làm công tác cách mạng ở Huế mỗi tháng một chỉ vàng mãi được. Lúc bấy giờ khan hiếm gạo nên quán hàng bán rượu cất từ sắn tươi. Nhiều khi người ta còn bỏ cả thuốc rầy vào rượu để tăng nồng độ của rượu. Tôi đã chứng kiến một vài lần Trịnh Công Sơn uống rượu sắn với Dương Toàn Thắng (em ruột của nhạc sĩ Mạnh Đạt) và ói mửa ra mật xanh mật vàng ngay tại chỗ. Không rõ có phải vì uống rượu độc hại mà sau đó không lâu Dương Toàn Thắng chết vì xơ gan cổ trướng không! Trịnh Công Sơn vào Nam, giao gian nhà kỷ niệm ở đường Nguyễn Trường Tộ Huế lại cho vợ chồng anh chị Hoàng Phủ Ngọc Tường-Lâm Thị Mỹ Dạ. Không ngờ sau đó một năm (1979), anh chị Tường Dạ lại giao gian nhà đó lại cho vợ chồng tôi (theo đề nghị của nhà văn Thanh Tịnh) để chị Dạ đi Hà Nội học ở trường viết văn Nguyễn Du, anh Tường bồng bế các con vào tá túc trên mảnh đất của gia đình ở Cầu Sơn quận Bình Thạnh Thành phố Hồ Chí Minh [8]. Anh Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức cách mạng tiêu biểu, có quá trình tham gia kháng chiến của tỉnh Bình Trị Thiên mà cũng ra đi. Điều đó chứng tỏ lúc ấy có một cái dịch “chất xám của Bình Trị Thiên” chảy vào miền Nam. Trước và sau thời điểm Trịnh Công Sơn chuyển công tác (1978), nhóm thanh niên Quảng Nam công tác ở Thành đoàn Huế trước và sau ngày Giải phóng chuyển vào Đà Nẵng (Lê Công Cơ, Nguyễn Thanh Minh, Huỳnh Phước….), một số hoạ sĩ bỏ nhiệm sở vào Nam hành nghề tự do như Đinh Cường, Hồ Hoàng Đài, Tôn Thất Văn…một số cây bút năng động của Huế như Trần Phá Nhạc, Lữ Quỳnh, Tần Hoài Dạ Vũ (Nguyễn Văn Bổn)…cũng không ở được phải vào Nam. Vào đó thất nghiệp có người phải ra nằm ngoài bến xe Miền Đông để bán sách dạo, có người đạp xích-lô nuôi vợ con. Một số bác sĩ làm việc ở Bệnh viện Huế quen biết chúng tôi vào Biên Hoà tỉnh Đồng Nai. Một số cán bộ từ Hà Nội, Quảng Bình ở không nổi cũng xin đi (Trần Công Tấn, Lê Bá Sinh…). Nhiều người thấy bạn bè của tôi “nam tiến” cả, họ ngạc nhiên hỏi tôi: “Ủa, ông chưa đi à ?” Sự thật ở Huế tôi cũng xất bất xang bang chứ có được gì đâu, nhưng ngặt vì tôi là người nghiên cứu Huế bỏ Huế mà đi thì lấy gì mà nghiên cứu nên phải ở lại cho đến ngày nay. Nhắc lại vài dòng như thế để thấy việc nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trở lại miền Nam năm 1978 là một tất yếu. Không có cách nào khác hơn.” Tôi trích dẫn hơi dài làm cho người đọc mất thì giờ, nhưng đây là vấn đề lịch sử nên dù vất vả tôi cũng phải cố gắng trình bày cặn kẽ (dù sức khỏe tôi rất kém), một là để Trịnh Cung có tài liệu soi lại những gì anh cho là sự thật, hai là để thỏa mãn bạn đọc gần xa muốn biết sự thật mà chỉ có những người bạn của Trịnh Công Sơn như chúng tôi mới biết được. Như vậy, tôi là người trong cuộc, hoạt động văn học nghệ thuật với NS TCS từ sau 30-4-1975 ở Huế, đã viết như thế, đã được Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và Nxb văn Học xuất bản 7 năm rồi, sách ra đời, ngoài hàng ngàn độc giả đã đọc, sách đã gởi tặng gia đình các em NS TCS, tặng tất cả bạn bè NS TCS ở trong nước và ngoài nước, cho đến giờ nầy chưa hề nhận được lời phê nào bảo rằng tôi viết sai. Nếu thấy tôi viết không sai sự thật thì những gì Trịnh Cung viết ngược với tôi là sự thật hay sự giả tôi dành câu trả lời cho độc giả. 5. Trịnh Cung viết: “Qua những “sự cố” như thế, có thể thấy TCS đã mắc những sai lầm với người CS như sau: - Thiếu minh bạch trong suy nghĩ về chiến tranh VN và tính hai mặt trong quan hệ xã hội. - Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lãnh đạo của tổ chức đó. - Không dám thoát ly đi theo MTGPMN. Và những sai lầm của TCS với phía VNCH: - Kêu gọi phản chiến nhưng chỉ nhằm vào phía VNCH. - Thiên về phía người CSVN ngay cả sau khi bị họ giết hụt trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế”. NĐX bình luận: Suốt bài viết Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị của họa sĩ Trịnh Cung, tôi thấy mấy dòng trích nầy có phần nào đó đúng với thực chất hoàn cảnh của Trịnh Công Sơn trước tháng 4-1975. Nhưng tôi khác với Trịnh Cung ở chỗ đứng để nhìn vào cuộc đời của NS TCS. Trịnh Cung đứng ở chỗ người của chế độ cũ, còn tôi đứng ở cái thế người cầm bút nghiên cứu tiểu sử NS TCS. NS TCS đã sống, đã sáng tác, đã viết, đã suy nghĩ như thế nào cố gắng phục hồi lại như thế chứ không kéo TCS qua phía nầy hay đẩy anh qua bên kia. NS TCS “Thiếu minh bạch trong suy nghĩ về chiến tranh VN và tính hai mặt trong quan hệ xã hội.” NS TCS là một Phật tử, trong máu huyết của anh thấm nhuần giới “cấm sát sanh”. Anh chống chiến tranh, chống chuyện giết người, đau đớn trước mọi cái chết từ cả hai phía. Vì thế quan điểm phản chiến của anh bị cả hai phía lên án. Mà không những Trịnh Công Sơn, Phong trào Phật giáo miền Nam vận động cho hòa bình dân tộc từ năm 1964 đến 1975 cũng thế, và chính tôi, lúc chưa đi kháng chiến cũng thế. Và, nếu suy nghĩ cho kỹ, tất cả những ai yêu nước chống Mỹ mà không là cơ sở hoạt động cho MTGP đều như thế cả. Từ cái tư tưởng và quan hệ xã hội hai mặt đó mà về sau NS TCS vận động, cổ vũ cho tinh thần hoà hợp, hòa giải dân tộc như đã trình bày trên. NS TCS “Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lãnh đạo của tổ chức đó”. NĐX bình luận: Đúng như thế. Thông tin nầy bác bỏ cái ý tưởng NS TCS có “tham vọng chính trị”, và “mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS” mà Trịnh Cung muốn gán cho Trịnh Công Sơn như đã trình bày trên. Và, nó cũng mâu thuẫn với thông tin Trịnh Cung dẫn chuyện Lê Khắc Cầm xác nhận Thư gởi Ngô Kha dẫn trên. Trịnh Cung ưng phán gì cứ phán, tiền hậu bất nhất, bất chấp sự thật, bất chấp trúng sai, bất chấp có mâu thuẫn với mình hay không. Một người suy nghĩ, nói năng, viết lách bá trúng bá phát như thế ai mà dám tin sự thật, sự giả của anh! NS TCS “Không dám thoát ly đi theo MTGPMN”. NĐX bình luận: Viết câu nầy chứng tỏ Trịnh Cung không hiểu gì về hoạt động của MTGP ở đô thị cả. Muôn thoát ly phải có tổ chức, có đường dây.Trịnh Cung vừa viết Trịnh Công Sơn “Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lãnh đạo của tổ chức đó” thì ai mời Trịnh Công Sơn thoát ly mà Trịnh Công Sơn không dám? Ai dẫn Trịnh Công Sơn ra chiến khu? Ai đã cho anh nguồn tin đó? Hay anh trưng dẫn chuyện nầy để chê Trịnh Công Sơn hèn, không dám thoát ly chịu ác liệt gian khổ như bạn bè của Trịnh Công Sơn? Xin Trịnh Cung cho biết nguồn tin chính xác. Nếu không anh mắc tội nói xấu người khuất mặt mà anh từng dựa dẫm. NS TCS “Kêu gọi phản chiến nhưng chỉ nhằm vào phía VNCH” NĐX: Chưa hẵn như thế. Nếu đúng như thế thì tại sao MTGP không trao Huân chưong binh vận cho NS TCS mà ngược lại chinh quyền hiên nay vẫn chưa cho hát nhạc phản chiến cúa Trịnh Công Sơn? Gia tài của mẹ nhắm vào ai? Có phải là nhắm vào cuộc chiến không? NS TCS “Thiên về phía người CSVN ngay cả sau khi bị họ giết hụt trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế”. NĐX bình luận: Chuyện NS TCS “Thiên về phía người CSVN” thì quá rõ ràng. Thiên (procommunisme) CSVN, chứ Trịnh Công Sơn không phải theo CSVN. Chuyện đó quá rõ ràng. Nhưng chuyện NS TCS “bị họ (MTGP) giết hụt trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế” thì lần đàu tiên tôi nghe thông tin nầy. Ai cung cấp thông tin đó cho anh? Mấy chục năm qua người ta vu khống cho lực lượng giải phóng Huế biết bao chuyện xấu trong Tết Mậu thân 1968. Bây giờ anh có vu không thêm năm ba chuyện nữa chắc cũng không có ai quan tâm. Nhưng đối vởi nhân thân của NS TCS - một nhạc sĩ lớn của dân tộc thì không thể xem thường. Nếu anh có nguồn tin đáng tin cậy thì tôi sẽ đi điều tra xác minh, để ghi vào tiểu sử cúa NS TCS rằng ông “từng bị MTGP giết hụt hồi Tết Mậu thân 1968”. Nếu anh không trưng dẫn được nguồn tin chính xác thì anh sẽ phạm vào tội vu cáo trước pháp luật. Anh có suy nghĩ gì về hiện tượng NS TCS vẫn “Thiên về phía người CSVN ngay cả sau khi bị họ giết hụt”? CSVN có gì hấp dẫn đến nỗi dù bị người của MTGP Huế giết hụt mà Trịnh Công Sơn vẫn cứ thiên về? Vẫn không chịu chống, không chịu quay lui? Hay NS TCS đã ý thức được, phân biệt được có ai đó đứng trong hàng ngũ MTGP Huế có chủ trương giết anh là việc nhỏ, còn lý tưởng đấu tranh đánh đuổi ngoại bang, giải phóng đất nước của CSVN là chuyện lớn không thể thay đổi được nên trong bất cứ hoàn cảnh nào TCS vẫn phải thiên về? Một người cạn nghĩ như anh, anh viết, anh nói bừa đến mức anh không hiểu ngay cả điều anh viêt, anh nói. Và, dĩ nhiên anh không thể nào tưởng tượng được những tác hại do anh gây ra cho người khác, cho chính bản thân, cho gia đình anh. 6. Trịnh Cung viết: “Bước Ngoặt “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”. Sa Lầy vào Rượu và Xu Nịnh. “Cuối tháng 5-1978, tôi ra khỏi trại cải tạo, gặp lại TCS. Lần nào đến nhà anh ở 47c Phạm Ngọc Thạch-Sài Gòn, sáng hay chiều, cũng thấy TCS ngồi nhậu rượu Ararat, một loại cô-nhắc Nga (sau “đổi mới” chuyển qua rượu chát đỏ của Pháp, và sau cùng là Whisky Chivas) với Nguyễn Quang Sáng và một số bạn “mới”. Tôi cảm thấy có một điều gì đó không ổn, hình như tôi, một thằng sĩ quan Nguỵ đi tù về, không còn được TCS và gia đình coi là người thân như ngày xưa. Thái độ khó chịu của tôi mỗi lần ngồi trước mặt những người bạn “mới” này của Sơn đã khiến tôi bị TCS và gia đình tẩy chay ngầm Thực ra, tôi đã bị TCS và nhóm bạn Huế cũ loại ra từ những năm tháng tôi đi lính VNCH mà tôi không hề biết. Sau này, hoạ sĩ Tôn Thất Văn (đã chết) đã kể lại cho tôi rằng có những cuộc họp ở Huế vào những năm 60-70, TCS và những người mà tôi đã coi là bạn thân tình đã đem tôi ra để phê phán, tẩy chay vì tôi đã không trốn lính và đứng về phía Quốc Gia”. NĐX bình luận: Đây là đoạn tự sự có giá trị nhất, thực nhất mà tôi tìm thấy trong bài viết Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị của họa sĩ Trịnh Cung. Lâu nay nghe Trịnh Cung nói và viết tôi cứ tưởng Trịnh Công Sơn và gia đình yêu về nết trọng về tài Trịnh Cung, té ra Trịnh Công Sơn và gia đình đã cạch anh không những từ sau ngày anh đi học tập về (khoảng 1978) mà cạch từ “những năm 60-70”. Nếu Trịnh Cung không thổ lộ, nếu Trịnh Cung không can đảm viết ra giữa ngày giỗ thứ 8 của NS TCS thì ông trời cũng bị lừa. Trong bài viết Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị Trịnh Cung cho biết “…bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được” (tức buổi sinh hoạt tưởng niệm Trịnh Công Sơn tổ chức vào ngày 4-4-2001 tại phòng sinh hoạt Người Việt, Little Saigon, nam California). Cái mà bây giờ anh nói hết chính là đoạn tự sự nầy đây. Qua đoạn tự sự nầy ta thấy: - NS TCS và gia đình anh bộc lộ tính cách Huế rất rõ nét: Cạch Trịnh Cung, nhưng cả nể không nói và cũng không có hành động gì làm phật lòng Trịnh Cung; không đóng cửa đối với Trịnh Cung; - NS TCS nổi tiếng dễ dãi, xuề xòa, không ngờ anh rất cảnh giác Trịnh Cung; - Trịnh Cung tự tố cáo tất cả những bài nói, bài viết của Trịnh Cung về tình bạn thân thiết của NS TCS dành cho Trịnh Cung đều do Trịnh Cung bày đặt, tưởng tượng hoặc hiểu nhầm để đánh bóng mình; Trịnh Cung là người khách không mời mà tới của gia đình Trịnh Công Sơn; - Biết mình bị tẩy chay mà Trịnh Cung vẫn lê la đến nhà Trịnh Công Sơn, ngồi chầu rìa. Cứ xem lại tấm ảnh lịch sử Trịnh Công Sơn - họa sĩ Đinh Cường tiếp nhạc sĩ Văn Cao sẽ thấy rõ cái sự chầu rìa của Trịnh Cung như thế nào; Trịnh Cung chầu rìa cuộc vui của Trịnh Công Sơn, Đinh Cường và Văn Cao - Phải chăng nỗi hận bị Trịnh Công Sơn, gia đình và bạn bè của Trịnh Công Sơn tẩy chay, Trịnh Cung đã phải giữ chặt dưới đáy lòng hòng duy trì cái tên Trịnh Cung bên cái giá tên NS TCS, để được nổi tiếng hơn, nay thấy mình đã “quá nổi tiếng rồi”, lấy “sự cao đạo làm tôn giáo” (như Trịnh Cung đã tuyên bố với báo chí), không cần cái giá đỡ của tên tuổi Trịnh Công Sơn nữa nên đạp cái giá đỡ để mình sừng sững nổi lên. Đồng thời trả thù gia đình NS TCS về cái tội đã ngầm tẩy chay Trịnh Cung suốt mấy chục năm qua. Động cơ viết bài Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị của Trịnh Cung chỉ vì chuyện nầy thôi. Các tác giả có chút phân tâm học phân tich tâm lý Trịnh Cung trong đoạn tự sự nầy chắc còn phát hiện thêm nhiều điều thú vị nữa. 7. Trịnh Cung viết: “Sau ngày 30-4-75, với cấp bậc Trung uý ngành Công binh VNCH, Đinh Cường trở lại Trường Mỹ Thuật Huế và được miễn đi học tập cải tạo nhờ vào việc đã tham gia các hoạt động đấu tranh chống VNCH của nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, TCS,.., nhiều năm trước. Có một kỷ niệm đặc biệt với Đinh Cường mà tôi cũng muốn nói ra luôn sau bao nhiêu năm cố giữ chặt trong lòng, để lòng mình thôi nặng trĩu và cũng minh chứng cho một tình bạn không hề có thật mà anh ấy đã dành cho tôi, mà tôi đã hằng chục năm cố nghĩ khác đi, cố không tin. Sự việc xảy ra như thế này: Ngày 1-5-75, 8g sáng tôi đến nhà Đinh Cường ở đường Nguyễn Đình Chiểu cũ, gần chợ Tân Định để xem tình hình như thế nào. Như thường lệ tôi vẫn đến đây dễ dàng như người trong nhà nên rất tự nhiên bước lên cầu thang dẫn lên căn gác của bạn mình. Thế nhưng chị TN, vợ Đinh Cường đã chặn tôi lại ở giữa cầu thang và nói Đinh Cường đi khỏi rồi. Tôi không tin và nói lớn là có hẹn trước, lúc đó Đinh Cường mới nói vọng xuống để tôi lên. Khi lên tới nơi thì đã có mặt của Bác sĩ Trương Thìn, Nhạc sĩ Miên Đức Thắng cùng ngồi đó. Tôi gượng gạo ngồi xuống và Đinh Cường nói với 2 vị khách kia như hỏi ý: “Mình cấp cho TC cái giấy chứng nhận thuộc Thành Phần Thứ 3 nhé!” Lập tức tôi đứng lên và từ chối: “Không, hãy để tôi chịu trách nhiệm với họ, và Thành Phần Thứ 3, Thứ 4 gì họ cũng dẹp sạch thôi!”…
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 14:31:28 GMT -5
NĐX bình luận: Đọc đoạn trích Trịnh Cung viết về họa sĩ Đinh Cường, tôi thật sự bị sốc nên phải tắt internet, và tắt máy điện toán, gục đầu trên bàn phím. Tôi không thể ngờ Trịnh Cung lại có thể hạ bút viết những điều bịa đặt vu khống trắng trợn dành cho người bạn học, bạn nghệ thuật thân thiết của Trịnh Cung đến như thế. Khi cơn sốc giảm nhiệt, tôi lại đâm ra buồn bã khó tả. Tôi có thể mail hỏi Đinh Cường thực hư như thế nào mà Trịnh Cung viết tệ hại đến như vậy, nhưng tôi sợ Đinh Cường cười trách tôi “Ông là một nhà nghiên cứu, là bạn tôi, biết rõ nhân thân của tôi, ông không thấy được chuyện sai trái Trịnh Cung viết về tôi sao lại còn hỏi tôi?” Và, tôi cũng không dám điện thoại hỏi hai ông ban Trương Thìn (bạn học cùng lớp với tôi từ năm 1960) và Miên Đức Thắng (bạn hát nhạc tranh đấu năm 1966), sợ họ cười tôi: “Trịnh Cung viết chuyện cách mạng như trò đùa vậy mà nhà nghiên cứu sử cũng quan tâm sao?” Tôi không dám hỏi ai cả. Vậy xin hỏi ai báo cho Trịnh Cung biết thông tin họa sĩ Đinh Cường “đã tham gia các hoạt động đấu tranh chống VNCH” cùng với NS TCS và chúng tôi ở Huế vậy? Chống lúc nào? Chống như thế nào? Hay họa sĩ Đinh Cường cũng chỉ là bạn văn nghệ bình thường với chúng tôi giống như tình bạn chúng tôi với anh vậy thôi? Sau 30-4-1975, có nhiều sĩ quan VNCH biệt phái dạy trường Mỹ thuật Huế không đi học tập chứ đâu có riêng chi trường hợp họa sĩ Trung úy công binh biệt phái Đinh Cường! Hồ Hoàng Đài (Đại úy), Đỗ Kỳ Hoàng (Trung úy) Nguyễn Đức (?) Nguyên (Trung úy)…không có ai tham gia tranh đấu với chúng tôi mà cũng có đi học tập đâu! Và ngược lại có biết bao người bạn tranh đấu của tôi tranh đấu chống VNCH thời Ngô Đình Diệm, thời Nguyễn Văn Thiệu Nguyễn Cao Kỳ như Ngô Trọng Anh (Bộ trưởng), Hoàng Văn Giàu (Asistant ĐH Huế), Bửu Tôn (Chủ tich HĐND Tranh thủ hòa bình), Hà Thúc Chữ (Đại úy tạo tác).v.v… mà cũng bị đi học tập chứ có được miễn đâu! Phải chăng Trịnh Cung bịa đặt chuyện “Đinh Cường không bị đi học tập vì Đinh Cường có thành tích hoạt động cho MTGP. Vì Đinh Cường hoạt động cho MTGP nên chơi không thật với Trịnh Cung - một sĩ quan VNCH tận tụy với chinh quyền Sài Gòn”? Bịa chuyện với mục đích giải thích tình bạn của Đinh Cường dành cho Trịnh Cung là “một tình bạn không hề có thật”, có nghĩa là Đinh Cường cũng đã cạch Trịnh Cung như Trịnh Công Sơn từ lâu rồi. Nếu Trịnh Cung nghĩ như vậy là anh đã phạm vào cái tội phản bạn một cách thô bỉ nhất. Tôi có nhiều thông tin về tình cảm tuyệt vời của họa sĩ Đinh Cường dành cho Trịnh Cung. Tôi kể một chuyện mà chính tôi là người nhận thông tin nầy trực tiếp từ Đinh Cường:
Cuối tháng 3- 2001, trong lúc Đinh Cường và tôi “meo qua”, “meo lại” lo lắng về bệnh tình của NS TCS thì được tin Trịnh Cung bị ung thư tuyến tụy ở Cali. Mà ung thư tuyến tụy thì không ai sống được quá một năm. Đến hôm nhận được tin NS TCS đã giả từ cõi tạm thì cũng được tin bệnh cúa Trịnh Cung không chữa được, “Trịnh Cung tha thiết được về chết ở Việt Nam”. Đinh Cường rất hoảng hốt. Ba người bạn thân thiết nhất, một người đã chết, một người sắp chết. Không thể cưỡng lại được sự hối thúc của tình cảm, Đinh Cường đã mua vé máy bay giá cao, ngồi suốt 6 tiếng đồng hồ bay từ miền Đông sang miền Tây nước Mỹ để tìm mọi cách giúp đỡ Trịnh Cung, thăm và tiễn Trịnh Cung về chết ở quê hương. Gặp được Trịnh Cung lần cuối ở Cali, Đinh Cường rất mãn nguyện. Trong thời gian ấy, Đinh Cường, Bửu Ý và tôi liên lạc qua “meo” hằng ngày. Những cái “meo”ấy tôi vẫn còn giữ làm kỷ niệm. Tôi chưa bao giờ thấy bạn bè trong giới văn nghệ có một người bạn tốt với bạn như Đinh Cường. Thế mà bây giờ Trịnh Cung lại thổ lộ giữa anh và Đinh Cường là “một tình bạn không hề có thật”. Thế Trịnh Cung đòi hỏi Đinh Cường phải sống với anh như thế nào nữa mới có thật? Và Trịnh Cung đã sống thật với Đinh Cường như thế nào. Anh ác quá Trịnh Cung ơi!
Trong đoạn trích anh viết về Đinh Cường có chi tiết 8g ngày 1-5-1975 anh đến nhà Đinh Cường để xem “tình hình như thế nào” thì bị “chị TN, vợ Đinh Cường đã chặn tôi lại ở giữa cầu thang và nói Đinh Cường đi khỏi rồi”. Chi tiết nầy làm cho tôi nhớ lại: Hôm tối thứ bảy, 5-5-2007, Trịnh Cung và Trần Tiến Dũng đi Virginia và Washington về lại Boston, trong bữa cơm tại nhà anh chị NBC, có cả Tô Nhuận Vỹ, anh kể chuyện ghé thăm Đinh Cường ở Virginia, nhưng TN vợ Đinh Cường không chào anh. Anh trách Đinh Cường không biết dạy vợ. Tôi nói với anh ngay: “Nếu thế thì anh nên coi lại tư cách của anh, chứ theo tôi biết bạn của Đinh Cường đến ở lại nhà, không những chị TN nấu cơm ngon đãi bạn mà còn nhắc “Có thay quần áo nhớp thì đưa cho chị bỏ vào máy giặt luôn” kia mà!” Anh không bằng lòng ý kiến của tôi nhưng anh không cãi tôi được. Tôi không ngờ 32 năm trước (1975-2007), chị TN đã từng không muốn chồng chị chơi với anh, không muốn để anh bước vào nhà chị. Phải chăng vì sự “uất hận” đó mà nay nhân chuyện trả thù Trịnh Công Sơn, anh “nói ra luôn sau bao nhiêu năm cố giữ chặt trong lòng” để hạ Đinh Cường luôn! Thế hết rồi. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, hai người bạn thân thiết nhất của đời anh mà vì “lý tưởng VNCH” và sự thiếu nhân cách của anh, anh đã hạ bệ họ đến thế thì thử hỏi trên cõi đời nầy, trong những năm tháng ngắn ngủi còn lại của anh còn có ai dám gần anh, ai dám làm bạn với anh nữa?
8. Trịnh Cung viết: “Với TCS, gia đình cùng các “đồng chí” rượu của anh, tôi lúc này là một kẻ xa lạ, một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu, một con kỳ đà làm cho cuộc vui hoan lạc của họ không được hoàn hảo, tôi nên biến đi. Nhưng tôi lại là một gã ngoan cố, tự cho mình nhiệm vụ phải ngồi lại để làm Sơn tỉnh táo hơn, để những tiếng nói bớt đi những lời xu nịnh. Ý thức được rượu, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuý tổng hợp đang nhấn chìm TCS được nguỵ danh dưới khẩu hiệu “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” nên tôi cố chiụ đựng sự khó chịu của họ và vẫn không tìm cách lấy lại chỗ đứng thân thiết vốn có với TCS thủa còn trai trẻ ở Huế bằng rượu chè, quà cáp đắt tiền và những tán tụng nuông chìu. Tôi vẫn đứng trên đôi chân liêm sỉ và theo đuổi một thứ nghệ thuật tri thức, đó là chỗ mà TCS, trong thâm sâu của tâm hồn anh, không thể loại bỏ tôi cho dù có khác nhau về quan điểm chính trị và cách sống. Đó cũng là điều mà TCS trong những lúc cô đơn nhất đã đến gõ cửa nhà tôi bất kể đêm khuya hay khi bình minh vừa ló dạng để hàn huyên hoặc khoe và hỏi ý kiến tôi về bức tranh mà anh vừa vẽ”.
NĐX bình luận: Những đoạn viết trước Trịnh Cung đứng trên lập trường của một sĩ quan chiến tranh chính trị cũ. Anh cho rằng vì cái lập trường ấy mà anh bị Trịnh Công Sơn và Đinh Cường xem thường anh và cạch anh. Đến đoạn viết nầy anh lại bất ngờ hiện hữu với Trịnh Công Sơn dưới cái lốt của một tín đồ đạo Khổng pha chế với Đạo Phật, “đứng trên đôi chân liêm sỉ và theo đuổi một thứ nghệ thuật tri thức” chống “rượu, phụ nữ và xu nịnh” đang làm hư hỏng Trịnh Công Sơn - “người bạn lớn” của anh (Báo Đẹp, 5-2001, tr.36). Anh bị Trịnh Công Sơn và gia đình cùng bạn bè của Trịnh Công Sơn xem là “một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu”, nếu anh là một người có liêm sĩ thì không bao giờ anh còn lì lợm chường mặt tới nhà Trịnh Công Sơn nữa. Trịnh Công Sơn xem anh như “một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu “thì làm sao anh có thể cảnh tỉnh Trịnh Công Sơn được? Anh không cảnh tỉnh được ai mà anh cứ “ngoan cố” xuất hiện thì chỉ còn một mục đich là đến để theo dõi Trịnh Công Sơn, đến để phá đám, xâm phạm đến đời tư, đến cuộc sống gia đình Trịnh Công Sơn mà thôi. May mắn là gia đình Trịnh Công Sơn chưa một lần đẩy anh ra khỏi cửa để bảo vệ không khí yên bình của gia đình họ.
Anh than phiền Trịnh Công Sơn về rượu. Anh có uống rượu không? Các bạn Bửu Ý, Đặng Tiến, Hoàng Đăng Nhuận, Bửu Chỉ… của anh có rượu không? Cuộc đời nầy người ta lên án những bợm nhậu gây tan nát gia đình, làm mất tư cách trong xã hội, chứ không ai trách Lý Bạch (701-762) uống rượu và làm thơ, không ai lên án Rimbaud (1854-1891) với Verlaine (1844-1896) “hai chàng thi sĩ choáng hơi men”. Đọc văn, đọc thơ của Đái Đức Tuân Tchya, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng không ai chê các ông nầy là bạn của “nàng tiên nâu” cả. Tôi không uống rượu nhưng rất vui được mời rượu bạn bè, mời rượu Trịnh Công Sơn. Năm 1976, thiếu rượu, mà có rượu cũng không có tiền mua. Mẹ tôi lúc ấy đã 65 tuổi, biết tôi có bạn là Trịnh Công Sơn “có rượu say ngà ngà rồi mới làm được nhạc hay”, nên nhân về Huế thăm vợ chồng tôi mới cưới bà làm một hủ rượu dâu đem về Huế tặng Trịnh Công Sơn. Hôm mời Sơn đến nhà tôi tại 20 Lý Thường Kiệt (Huế) tặng hủ rượu, mẹ tôi nói:“Ngồi xe đò chật cứng, hai tay bưng hủ rượu, may mà đem về được để tặng anh đây. Anh đem về uống rồi làm nhạc cho hay để bác nghe với!” Trịnh Công Sơn rất cảm động nhận hủ rượu của mẹ tôi. Sau đó mỗi lần gặp tôi anh luôn hỏi thăm sức khỏe mẹ tôi ở Đà Lạt và không quên nhắc đến hủ rượu dâu Đà Lạt rất ngon của mẹ tôi. Lúc nhỏ ở với mẹ, mỗi lần mẹ thấy tôi bưng ly rượu, hay kẹp điếu thuốc là bà gọi về đánh què tay. Vì thế mà đời tôi thiếu mất cái sảng khoái của rượu, của thuốc lá. Mẹ tôi là một bà già nhà quê mà biết làm rượu cho Trịnh Công Sơn uống để làm nhạc, Trịnh Cung là một họa sĩ, một người bạn thân thiết với Trịnh Công Sơn, đã có biết bao lần nhậu tuy lúy với Sơn, thế mà giờ đây thay vì mua rượu đem về Nghĩa trang Quảng Bình uống rượu bên mộ bạn nhân ngày giỗ thứ 8 của bạn, anh lại đi viết bài lên giọng đạo đức lên án chuyện rượu của Trịnh Công Sơn! Cái tâm của người nghệ sĩ của anh để dưới gót chân sao anh tàn nhẫn đến thế, Trịnh Cung?
Anh chê chuyện “gái” của Trịnh Công Sơn. Tôi buồn cười quá. Anh có “gái” không? Tôi đã từng viết một bài cám ơn những giai nhân đã đi qua đời Trịnh Công Sơn để cuộc đời có thêm những bài nhạc hay. Tất cả những giai nhân đi qua đời Trịnh Công Sơn họ đều lấy đó làm một kỷ niệm, một đóa hoa bất diệt của đời họ. Có ai kiện, ai tố cáo Trịnh Công Sơn say rượu làm hại đời họ đâu? Có một ca sĩ có giọng hát rất hay, giàu có, danh vọng, hạnh phúc gia đình, thế mà cách đây mấy năm cô đã tâm sự với tôi: “Em hát nhạc Trịnh em yêu anh ấy mười, nhưng em biết rõ hoàn cảnh của anh ấy, biết rõ những “thiếu thốn” của anh ấy, em yêu Trịnh đến trăm lần. Nhiều lúc em muốn ôm chầm lấy anh ấy, hôn anh ấy mà nói em yêu anh, em yêu anh trọn đời. Nhưng em sợ người ta nói em thấy sang bắt quàng nên thôi… Bây giờ nghĩ lại tiếc quá và thương anh ấy quá!”. Tôi không viết tên ca sĩ ấy. Khi đọc được mấy dòng nầy chắc chắn ca sĩ ấy sẽ xác nhận với anh và bạn đọc :“Chính tôi đã tâm sự với ông Xuân như thế!”
Anh trách “chuyện gái” của Trịnh Công Sơn anh đã mâu thuẫn với chính anh, mâu thuẫn với những gì anh đã nói, anh đã viết. Trong bài “Trịnh Cung hồi sinh nhờ tình yêu”(Cập nhật: 25/09/2007 - 02:16 - Nguồn: vnExpress.net), có một phóng viên hỏi anh: “Ông bị ung thư tụy. Bác sĩ nói ông không còn sống được bao lâu nhưng đã 6 năm rồi, ông vẫn khoẻ. Điều gì đã hồi sinh nhà thơ, họa sĩ Trịnh Cung?”, anh đã đáp “ Với tôi, tình yêu là thứ siêu dược phẩm, siêu dược liệu. Nhạc sĩ có tình yêu càng nhiều thì sáng tác của họ càng thăng hoa, mà Trịnh Công Sơn, Phạm Duy là một ví dụ” [9]. Anh cũng khoe với báo chí anh đang “Tận hưởng hạnh phúc hết công suất!” với Phương Lan. Và, không cần phải trích dẫn chuyện cũ vài ba năm, ngay trong bài viết Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị nầy, anh cũng đã thấy sự thật: “Dần dà rồi TCS cũng tìm lại cho mình một phần phong độ sáng tác nhờ hấp thụ những ngọn lửa nhỏ từ những nhan sắc phụ nữ”.
Con người anh không có đạo đức mà anh giả đạo đức đi phê phán người khác nên gậy ông đã đập lưng ông. Điều anh phê phán Trịnh Công Sơn chính là điều người đời đang chê trách anh.
- Anh trách Trịnh Công Sơn thích “xu nịnh”. “Nịnh” là chất nhờn bôi trơn cuộc sống. Trong trường hợp của Trịnh Công Sơn, có lẽ nên dùng từ “khen” đúng hơn. Làm người ai không thích “nịnh”, ai không thích khen. (Anh có thích khen không? chứ tôi thì thích lắm). Nghe lời xu nịnh để làm bậy thì đáng trách, chứ thích nịnh, thích khen là bản tính của con người. Trịnh Công Sơn là người nên anh ấy thích nịnh, thích khen có gì phải quan tâm? Chỉ khác nhau ở chỗ người tự trọng thì biết tiếp nhận lời khen đúng và từ chối, thẹn với lời khen không đúng, kẻ bần tiện thì nghe ai khen là hỉnh mũi tự đắc bất chấp đúng hay lố bịch. Người có tư cách vui mừng được nghe một lời khen người hay, kẻ bần tiện chỉ thích mình được khen và ganh tị với người khác được khen. Không rõ Trịnh Cung thuộc loại người nào (?). Anh có ganh tị với Trịnh Công Sơn không? Câu trả lời đã có sẵn trong câu hỏi.
Anh Trịnh Cung,
Thất sự tôi còn có thể vạch thêm nhiều sự độc ác, sai trái, đạo đức giả gài trong bài viết Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị của anh nữa, nhưng thiết nghĩ với một lá thư viết cho bạn trên 25 trang A4 của một ông già 73 tuổi như thế nầy xưa nay cũng đã hiếm rồi. Trước khi dừng bút tôi có mấy điều tâm sự với anh sau đây:
1. Anh tuyên bố “…bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật.” Qua bài viết anh đã nói rõ cái sự thật đó là đã từ mấy chục năm qua Trịnh Công Sơn và gia đình đã cạch anh, chứ không phải anh được thân thiết với Trịnh Công Sơn như anh đã nói, đã viết từ trước cho đến ngày giỗ thư 8 của NS TCS;
2. Anh không cung cấp được đièu gì mới “để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS” cho các lực lượng chống cộng ngoài những thông tin cóp nhặt quá bình thường;
3. Anh đã tháo được ra khỏi lòng mình mối hận đời đã xem thường anh, cái mối hận đã “quằn quại trong cái nhà tù ký ức làm” anh “đau buồn đến không chịu nỗi”; từ sau khi NS TCS mất. Tính đến nay anh đã ra tay hạ 3 người bạn mà anh đã bao lần cho là thân thiết nhất của anh;
4. Trước đây 8 năm anh đã thất bại khi hạ uy tín của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nay anh lại thất bại trong viêc hạ bệ uy tín NS TCS và họa sĩ Đinh Cường; ngược lại qua hành động “hạ nhục bạn” đó anh đã bộc lộ nguyên hình một sĩ quan chiến tranh chính trị cũ lừa thầy phản bạn của anh;
5. Qua sự bộc lộ trong bài viết của anh trên Web damau.org nhiều người cám ơn anh, nếu chưa có bài viết đó họ còn nhầm anh dài dài nữa. Những người từng được anh mê như L.Th, Nh.H., họ mừng may mắn đã không phải lòng anh;
6. Với nhận thức chính trị lạc hậu, với cái ngã quá lớn, với âm mưu đạp người khác xuống đất để mình cao hơn, anh không lường được hậu quả vô cùng xấu đối với sư nghiệp nghệ thuật và người chung quanh anh.
Những người bạn Huế yêu quý Trịnh Công Sơn họ nhiễm tính của Trịnh Công Sơn “thôi kệ” anh và không bao giờ họ nhắc đến tên anh nữa. Dù “thôi kệ” anh, nhưng trong lòng họ không thể “thôi kệ” với một thực thể: “Thà có kẻ thù đầy mưu trí, ít nguy bằng bạn quí ngu si” (Rien n’est si dangereux qu’ un ignorant ami; Mieux vaudrait un sage ennemi.) (La Fontaine). Muốn khỏe cho tuổi già, tôi cũng có thể nhắm mắt “thôi kệ” anh. Nhưng dù sao, tôi không thể xóa hết những kỷ niệm quen nhau đúng nửa thế kỷ với anh, không thể xóa hết những hình ảnh mới rợi ở Hoa Kỳ hồi mùa hè năm 2007 với anh. Tôi không thể “một lần đạp c., một lần chặt chân”, tôi muốn được rữa chân. Nhưng nói chuyện phải trái với một người “lấy sự cao ngạo làm đạo đức” như anh đã nhiều lần vỗ ngực xưng tụng, thì quá khó! Năm mươi năm cầm bút, tôi đã bao lần bút chiến với ta, với địch, nhưng chưa bao giờ tôi thấy khó khăn như phải tranh luận với anh hôm nay. Khó không phải vì trí thức của anh, khó không phải vì sợ các thế lực nào đó đứng sau lưng anh mà khó vì anh đã từng là bạn tôi, khó vì phải vạch áo của bạn bè cho người xem lưng. Ôi!
“Hỡi Thượng-Đế! Hãy canh giữ giùm con những người bạn thân thiết, còn kẻ thù, con đảm đương được” (Mon Dieu! gardez-moi de mes amis! Quant à mes ennemis, je m’en charge!) (Voltaire).
Dù anh vẫn trung kiên với cái mác sĩ quan chiến tranh chính trị cũ của anh, dù anh vẫn xem ngày 30-4-1975 là “ngày mất nước” (t/c Văn đã dẫn, tr.82), dù anh viết bài gởi đăng trên các trang Web ngoại quốc ghi nơi viết là Sàigòn chứ không phải là TP HCM, nhưng vì tôi đã thấy Hộ chiếu vào ra nước Mỹ của anh do nước CHXHCNVN cấp, chứ không phải hộ chiếu thời Nguyễn Văn Thiệu, thấy hộ khẩu của anh ở TP HCM, vẫn nhớ ngày 4-1-2001, trong cuộc tưởng niệm NS TCS tại Cali, anh xin phát biểu trước cả nhạc sĩ Phạm Duy để về chết ở quê hương Việt Nam nên tôi vẫn không xem anh là địch. Tôi chỉ đau khổ như câu kết của Voltaire dẫn trên mà thôi. Tôi không xem anh là địch nên nhờ hinh thức viết thư để giữ liên lạc, nói chuyện phải trái với anh, còn nước còn tát, may sao…
Nếu anh vẫn theo cái đạo “cao ngạo”, vẫn mang tâm cảnh của một sĩ quan chiến tranh chính trị của chế độ cũ, vẫn nhắm mắt trước điều hay lẽ phải của những người chưa dứt tình trao đổi với anh, thì tôi e rằng không một người có liêm sĩ nào, một người hát nhạc Trịnh Công Sơn nào còn treo tranh của anh trong nhà nữa, không một người sưu tập sách, sưu tập báo chí nào còn tâm trí giữ những trang có tên, có hình ảnh, có bài viết của anh trước ngọn lửa đỏ. Và tôi, khi ấy buộc lòng cũng phải bye ! bye ! anh.
Trịnh Cung ơi! Chưa muộn đâu! Hãy nắm lấy cơ hội.
Nguyễn Đắc Xuân
Chú thich
[1]Tât cả nhừng câu, đoạn in nghiêng trong ngoặt kép đều trich từ bài viêt Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị của họa sĩ Trịnh Cung đăng trên trang Web damau.org ngày 1-4-2009.
[2] Trịnh Cung giải thích lý do vì sao anh không được đi Mỹ: “Sau 1975 tôi mới biết ông Nguyễn Văn Quyện, kiến trúc sư, Giám đốc Nha Mỹ Thuật Học Vụ, người ký quyết định không cho tôi đi Mỹ và trả tôi lại quân đội theo đề nghị của hoạ sĩ Vĩnh Phối - Hiệu trưởng Trường CĐMT Huế, cả 2 đều là Việt cộng nằm vùng)”,
[3] Giữa lúc chính quyền Sài Gòn đặt “cộng sản” ra ngoài vòng pháp luật, Thầy Nhất Hạnh viết : ” Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai!”
[4] Có người đọc sách của tôi và cho tôi biêt người đó là họa sĩ Trịnh Cung
[5] Trong một cuộc họp tại Thành ủy Huế lúc ấy tôi đã phê phán chuyện nầy. Tôi cũng đã được một bài học: “Đảng viên phải nói theo Nghị quyết Nói không đúng với Nghi quyết sản xuất tự túc là khuyết điểm, phải kiểm điểm.” Tôi không kiểm điểm nhưng may mắn cũng không hề bị kỷ luật gì. Nhiều cán bộ công tác ở Văn phòng Thành ủy Huế lúc đó, ngày nay vẫn còn nhớ chuyện nầy.
[6] Lúc đó lương tháng của tôi chỉ có 58 Đồng
[7]Theo Vinh Nguyễn (người được TCS cho ở chung nhà ) cho biết thân mẫu của Trịnh Công Sơn có dặn rằng: “Mỗi lần ăn lấy ra hai cục bỏ trong chén và hấp khi cơm sôi. Khi ăn xé nhỏ và có muốn thêm gia vị thì tùy… ”
[8]Ở Cầu Sơn được một năm , anh Tường cảm thấy Cầu Sơn rớt xuống cơn sầu nên đến tháng 6 năm 1980, lại dọn ra Huế, gia đình tôi chuyển về 16 Lý Thường Kiệt, gian nhà nhiều kỷ niệm của Trịnh Công Sơn lại giao lại cho anh chị Tường Dạ.
[9] Trong buổi sinh hoạt tưởng niệm Trịnh Công Sơn tổ chức vào ngày 4-4-2001 tại phòng sinh hoạt báo Người Việt, (Little Sàigòn, nam California), những người tổ chức ưu tiên cho Trịnh Cung phát biểu trước tiên, vì Trịnh Cung bị ung thư tuyến tụy, không thể chữa được, sắp lên tàu bay về Việt Nam để chết. Thông tin đó đã làm cho bạn bè ở Hoa Kỳ và ở TP HCM hết sức xúc động, đưa đón Trịnh Cung về nước tràn ngập tình cảm. Nhưng về đến TP HCM rồi không thấy Trịnh Cung đau ốm gì cả mà chỉ thấy Trịnh Cung đi nói chuyện, trả lời phỏng vấn, viết hết bài nầy đến bài kia về mối quan hệ của Trịnh Cung với người bạn lớn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mà thôi. Dư luận đã đặt ra ba vấn đề: 1. Phải chăng ngành y khoa của Mỹ quá kém nên chẩn bệnh nói Trịnh Cung bị ung thư tuyến sai? 2. Trịnh Cung được y khoa Mỹ chẩn bệnh đúng nhưng bó tay không chữa được nên trả Trịnh Cung về VN, về VN Trịnh Cung đã tìm được thuốc thần qua mặt y khoa Mỹ và lành bệnh. (Chỉ tiếc là Trịnh Cung không tiết lộ thứ thuốc thần ấy để giúp cứu sống những người xấu số mắc phải cái bệnh tai ác ung thư tuyến tụy?) Những thắc mắc đó chưa có dịp hỏi Trịnh Cung thì may sao, phóng viên vnExpress.net (Cập nhật: 25/09/2007), đặt vấn đề với Trịnh Cung và được anh giải đáp: “tình yêu là thứ siêu dược phẩm, siêu dược liệu” đã chữa được cái bệnh hiểm nghèo ung thư tuyến tụy của anh. Không hiểu sao cho đến nay giới y khoa, nhất là y khoa của Mỹ, chưa đến hỏi anh cái “thứ siêu dược phẩm, siêu dược liệu” tình yêu đó ra sao. Đến bao giờ Trịnh Cung mới phổ biến thứ “thần dược” ấy ? Hay đây cũng là một trò bịp nhân sự ra đi của NS TCS, Trịnh Cung đi nói chuyện quảng cáo cho cái thương hiệu Trịnh Cung?
bài của Nguyễn Đắc Xuân
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 14:33:16 GMT -5
Ý Kiến về bài viết của Ng Đ Xuân
Nguyễn Quãng viết: Tôi chỉ là một độc giả, hiện đang sống ở Miền Nam hơn 50 năm. Trong những thập niên 60,70 đã có theo dõi đọc Đối Diện, nghe và tìm hiểu nhạc Trịnh và chứng kiến ngày 30/4 khi đang học đại học tại Sài Gòn. Tôi có đọc báo và đã đọc câu trả lời của 1 nhạc sĩ và có thể thấy rằng: ” …nghệ sĩ cũng chỉ là những con điếm bệnh hoạn … hết ngủ với người này rồi sang kẻ khác… cũng vẫn có đam mê hứng thú…” Còn cái việc kiểm điểm mà NĐX nói còn lạ gì ở đất nước XHCNVN mà ông còn ngụy biện, một kiểu đấu tố… Xin viết lại 2 câu thơ của Nguyễn Công Trứ: “Bạc mệnh không lầm người tài đức, Gian truân cho đáng kiếp tà dâm”
- 17.04.2009 vào lúc 12:56 am Chung Nguyễn viết: Lá thư của ông NĐX mang tính kể lể nhiều.Nó phản ánh tư chất của XHCN hiện tại qúa.Những tiếng gào đồng thanh thật chán cho một cuộc tranh luận thú vị về người nhạc sĩ này.Con người mà,ai chả có THAM VỌNG,HOÀI BÃO,ƯỚC MƠ.Đó là thứ bình thường.Tôi tin họa sĩ Trịnh Cung không phải là người “kể xấu”bạn bè.Ông đang thông cảm cho cuộc đời của Trịnh khi sinh và sống trong cuộc chiến tương tàn.Xót xa và đớn đau lắm chứ.
Người Việt mình thường nói dzậy mà không phải dzậy.Khi ta đứng trên một bậc trí thức ta sẽ thấy nó khác.Xã hội mình mắc bệnh tô hồng cho nên nếu có một chút vệt ố nhỏ về thần tượng người ta sẽ cố gắng xóa đi ngay.Thiên tài thế giới có ai mười phân vẹn mười.
- 17.04.2009 vào lúc 6:12 am Minh Ngoc viết: Tôi xin hỏi ông NĐX chúng tôi phải tin ai đây, một là tại báo Thanh Niên chỉ toàn là những điều kết oán, chửi rủa ông TC một chiều hay là tại bàn thảo luận của tạp chí Da Màu, có phản biện từ cả hai phiá . Ông NĐX cho rằng không có việc ông Ngô Kha rủ rê ông TC vào mặt trận vì ông TC là Trung Uý của VNCH, lý do ông NĐX nêu ra hết sức buồn cười vì chính tai tôi nghe trên radio vụ việc ông Giáo sư Lê văn Hảo và thượng toạ Thích Đôn Hậu bị các ông bắt cóc trong vụ tết Mậu Thân để làm chức vụ chi đó quan trọng trong tổ chức thành phần thứ ba của các ông dựng lên .
Riêng tạp chí Da Màu, tôi xin có ý kiến tại sao ban chủ trương của tạp chí không cho đăng phần ông NĐX nhục mạ dèm pha phu nhân Trịnh Cung để chúng tôi có thể biết thêm về đạo đức Cách Mạng của ông NĐX như thế nào .
Ngoài ra nói vể tư cách ông Trịnh Cung, chúng tôi đã thấy một phần là ông dám đứng lên cùng các thanh niên trẻ trong nước tham gia biểu tình chống bọn bành trướng Trung Quốc, một việc làm hết sức can đảm vì ông ta đã từng bị ở tù cải tạo với danh từ hoa mỹ của các ông là học tập , ông TC dể dàng bị chính quyền các ông khép tội vô cùng là phản động, chống đảng, chống nhà nước, hay gây hiềm khích dân tộc với người anh em vĩ đại Trung Quốc, còn các ông sau khi đuổi cho Mỹ cút đánh cho Ngụy nhào thì các ông đã làm gì cho đất nước, hay lại làm thân tôi đòi cho bọn bành trướng Trung Quốc xâm lăng VN . Xin hãy một lần thật sự làm người Việt ông yêu nước ông NĐX nhé, mỗi người chỉ có 1 lần sống và 1 lần chết thôi ông ạ .
———- BBT Da Màu trả lời về câu hỏi liên quan đến phu nhân họa sĩ Trịnh Cung:
Chúng tôi nhận được sự hợp tác sốt sắng của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân khi đề nghị cắt bỏ phần nội dung có thể xúc phạm đến những người vô can, trong đó có phu nhân của họa sĩ Trịnh Cung. Chúng tôi đã cám ơn ông về sự hợp tác này. Những gì không xuất hiện trong bài viết thì không cần bàn đến.
BBT Da Màu
- 17.04.2009 vào lúc 9:16 am Trần Thiện Huy viết: Xin phép nhắc nhở ông Nguyễn Quãng một điều: việc dùng danh từ chung, ở số nhiều, có lẽ là không cần thiết và đi quá mục đích của ông trong câu này:
“…nghệ sĩ cũng chỉ là những con điếm bệnh hoạn…”
Trừ phi ông trích lại từ một người nào đó.
- 17.04.2009 vào lúc 9:58 am Mã Ý viết: Bài viết của họa sĩ Trịnh Cung phản ánh được những việc thật tầm thường của con người trong thời nội chiến, 54-75. Ông TCS cũng như nhiều người khác đã tặng cho mình chiếc áo trí thức rồi cũng cơ hội, luồn cúi, háu danh để làm những việc mà hậu quả rất tai hại cho không biết bao nhiêu người khác. Theo tôi, nhìn lại cuộc đời của ông TCS thì ông TC không nói ngoa đâu. Ông NDX nên bình tỉnh, can đảm nhìn lại xem.
Tôi e rằng, ông TC và ông NDX viết bài với hai mục đích khác nhau. Ông TC muốn tìm nguyên nhân đưa đến dân VN đang sống trong nghèo khổ, thua thiệt với các nước láng giềng như hôm nay. Còn ông NĐX thì không đủ bản lĩnh để nhìn thấy thực trạng của nước VN như hôm nay vì chính ông đã góp phần tạo nên nó.
Tôi nghĩ dân nước mình chỉ khỏi khốn đốn khi những người như ông NĐX biết sám hối hoặc biết mình đã bị lừa rồi nói lời tạ lỗi cùng những oan hồn Mậu Thân.
- 17.04.2009 vào lúc 9:31 pm Trần Lê viết: Kính gởi : Ông Nguyễn Đắc Xuân Tôi cũng là người Huế , và hầu như người Huế nào coi sự kiện 1968 ( Mậu Thân ) là một nỗi đau mà hơn 40 năm qua mỗi khi tết đến xuân về thỉnh thoảng còn rỉ máu , đó là kỷ niệm tang thương như biến cố 23tháng năm (23/5) âm lịch , ngày thất thủ kinh đô , ngày tang thương của Huế .
Tôi là kẻ hậu sinh , lớn lên dưới chế độ XHCN , đâu có được học những tư tưởng tự do , chỉ biết loáng thoáng Trịnh Cung là hoạ sĩ , Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ … , không biết các ông ấy có ” tham vọng ” chính trị hay không ? nhưng có biết các ông ấy đã chọn cho mình sự dấn thân cho nghệ thuật , biết đồng cảm với cái đẹp , phản kháng với cái xấu , cái ác mà cá nhân hay bất cứ chế độ nào đã gây ra cho đồng bào mình , cho dân tộc mình . Tôi nghĩ nhạc sĩ TCS đã mất , nhưng những ca từ của ông viết về biến cố Mậu thân khó mà phai mờ trong tâm trí người Việt : ” Chiều đi lên đồi cao ….Mẹ vỗ tay reo mùng xác con ” … ” xác nào là em tôi …” Thôi thì ông cũng già rồi , thế hệ của ông , Hoạ sĩ Trịnh Cung , Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rồi cũng về với đất , nhưng mà sao thế hệ các ông không chịu ăn năn , ít nhất là một cử chỉ , để chúng tôi thế hệ đi sau còn lấy đó mà làm bài học kinh nghiệm cho mình . Chúc ông sức khoẻ . Trân trọng kính chào
- 17.04.2009 vào lúc 10:05 pm Nguyễn Thường Tình viết: Từ hôm ông Trịnh Cung (TC) tung ra bài báo nói về tham vọng của Trịnh Công Sơn (TCS) đến giờ chỉ có ý kiến ông Đào Hiếu (ĐH) nói là nghe được. Vì ông này đã hoạt động cho MTGPMN, nay nhìn vào thực tế thấy kết quả là dân chúng đói khổ bị hà hiếp (chiều nay tôi thấy ông ta viết thư cho ông Phạm Chánh Trực nhờ can thiệp việc cô gái trẻ có thai bị công an đá vào bụng) thì ông ta thấy TCS cũng chỉ là một loại “tưởng bở”. Ngoài Trương Như Tảng, Tô Hoài, Dương Thu Hưong, Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Nhạc Sĩ Tô Hải, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, Tướng Trần Độ… rồi lần lượt sẽ còn nhiều người “tửơng bở” nữa sẽ tự trách trong đó có Nguyễn Đình Thi (con ông ta là nhà văn Nguyễn Đình Chính sẽ cho công bố tài liệu vào năm 2014?). Ông Nguyễn Đắc Xuân 71 tuổi rồi bao giờ nhà sử học sẽ “tự thuật” thực sự về MTGPMN. Ông là nhà sử học nhưng chưa đọc đủ sách tiếng phổ thông do các cố vấn La Quảng Ba, Trần Canh…viết về chiến tranh “chống Pháp, chống Mỹ Ngụy” của CSVN. Ông cũng nên đến thư viện ở Mạc Tư Khoa để đọc thêm về tài liệu tiếng Nga viết về chiến tranh Việt Nam nữa. Nếu dư thì giờ nữa thi sang Mỹ đến thư viện Quốc Hội Mỹ, Texas, Cornell đọc thêm tài liệu về chiến tranh Việt Nam…Nói tóm lại ông biết quá ít về chiến tranh Việt Nam. Như thế TCS nói chiến tranh Việt Nam là một cuộc nội chiến thì quá đúng rồi còn gì nữa. Hai bên cứ tuyên truyền là yêu nước rồi mang súng đạn của ngoại bang mà giết nhau à ? Thôi bây giờ cuộc chiến đã tàn hơn 30 năm chúng ta không nên ấu trĩ lại dùng ngòi bút và miệng lưỡi để tiếp tục giết nhau nữa. Nhạc tình của TCS thi tuyệt vời chúng ta không nên bình luận “chính chị, chính em” gì sất. Còn nhạc chính trị ta cũng nên bình luận về phần lời thôi. Có anh bạn tặng tôi một bản nhạc của TCS đăng trong báo Văn Học Nghệ Thuật (?) gì đó, nếu có ai nói không phải của TCS thi làm ơn cho biết (tiếc quá tôi không scan được phần nhạc để cả làng xem chơi). Nhưng bản nhạc của TCS này tôi riêng tặng bác Nguyễn Đắc Xuân:
Lời ca thế này:
“Ngọn Lửa Vĩnh Cửu Mát-XCƠ-VA
Từ Mát-xcơ-va có ngọn lửa ngày đêm cháy. Từ Mát-scơ-va ngọn lửa ấy đời đời. Lửa cháy trên nấm mồ thương nhớ. Lửa thắp trên khăn quàng em bé. Từ Mát-xcơ va có ngọn lửa ngày đêm cháy. Lửa ấy trong tim hòa bình giữa lòng người.”
Thôi thế nhé xin thắp một nén hương cho bác Trịnh Công Sơn ngủ yên ngàn năm.
- 17.04.2009 vào lúc 10:43 pm Văn Lang viết: 1. Khi thảo luận, điều lớn nhất chúng ta nên tránh là xoáy vào cái gì bất khả kháng. Con người, ai cũng có hạn chế. Cụ thể là người sống ở ngoài nước thì không bị câu thúc bởi hoàn cảnh chính trị như đa số anh chị em trong nước. Những câu thúc càng lớn, điều đau khổ trong lòng càng tăng, không nói ra được thôi. Con người, ai không sợ, ai không có gia đình thân thích để phải lo lắng? Cho nên đòi hỏi kiểu “sao lại im, không nói gì đến hiện thực xã hội quanh mình” là việc không nên làm, vì ai tự thấy nói ra được thì họ đã cố gắng nói ra rồi. Nếu chúng ta tự hỏi mình: “Đang ở ngoài nước đây, mà ta có làm được gì hay không?” thì sẽ thấy cảm thông được người trong nước hơn.
2. Ngược lại, trừ phi bị bắt buộc, thì cũng nên tránh khơi lại chuyện cũ. Chúng ta không nói ai sai ai đúng ở đây, nhưng thực tế là ngày trước 1975, đa số người phải tham gia vào quân đội hay chính quyền ở miền Nam cũng chỉ là chuyện cực chẳng đã, cũng vì phải sinh sống, hay vì không tránh đựợc, thế thôi. Thảo luận quan trọng ở điểm có logic, có đúng, hay không. Nay xoáy vào điều anh là trắng tôi là đỏ, xưa anh là quân nhân…, để làm gì? Đã 34 năm qua rồi, chúng ta tất cả rồi cũng sớm về đất. Xoáy vào như thế, có ích gì cho tương lai đất nước, cho tiền đồ dân tộc, hay ngay cho cả bản thân mình?
3. Đọc bài này của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân, tôi nghĩ phần lớn anh viết gửi cho h/s TC, nhưng phần khác, tự nhiên tôi thần giao cách cảm, nghĩ là những câu này có lẽ không phải dành cho ông TC: “Hỡi Thượng Đế! Hãy canh giữ giùm con những người bạn thân thiết. Còn kẻ thù, con đảm đương được” (Voltaire). “Thà có kẻ thù đầy mưu trí, ít nguy bằng bạn quý ngu si” (La Fontaine). Cụ Phan Bội Châu có làm mấy câu này: “Trên trăng dưới nước giữa mình/ Thôi cùng với bóng tự tình vân vi …”
4. Khi viết những điều các bạn sắp đọc ở dưới đây, tôi có nghĩ đến câu hỏi: “Lại theo hoạ phái mới, đưa lời nói của người chết làm bằng chứng!”. Xin thưa ngay tôi không yểm trợ cho h/s Trịnh Cung (TC), vẫn trách ông ấy thiếu cái nghĩa và sự công chính đối với nhạc sĩ TCS, và thấy mình nên “kính nhi viễn chi” với h/s TC từ khi đọc bài viết đó. Nhưng điều tôi viết ra đây, rất tiếc là trong một buổi nói chuyện gặp gỡ thì không ai đi thâu băng để làm bằng cớ.
Tôi không quen thân với n/s TCS, chỉ có gặp anh TCS vài lần. Một lần vào năm 1980, anh Sơn có nói với tôi đại khái thế này: “Mình có nói thẳng là – Các anh bắt tôi đi học tập lao động ở nông thôn để học hỏi người nông dân và hiểu được tâm tình của họ. Xin nói thật là trước đây, tôi rất phục người nông dân, bây giờ biết được, tôi rất coi thường họ. Mấy trăm năm trước họ cũng vậy, bây giờ cũng không tiến bộ hơn chút nào, cũng làm giống hệt. Mà tôi cũng xin đề nghị các anh phải công bằng. Phải có qua có lại, anh em nghệ sĩ chúng tôi học ở họ xong rồi, cũng phải đưa họ đi học tập để hiểu anh em chúng tôi thế nào chớ! Đưa cho họ cái đàn bảo họ cũng chơi nhạc và sáng tác như chúng tôi đã đi lội bùn trồng lúa vậy thử xem …” N/s TCS vốn ít lời, nhưng lần đó có vẻ xúc động nên anh mới nói khá dài như thế. Về chuyện đi lao động, anh có nói, rất ngắn: “khi làm trúng bãi mìn, có người chết. Có hoài!”
5. Cuộc tranh luận về nhạc sĩ TCS có lẽ còn dài, vì những gì n/s TCS để lại cho chúng ta quá phong phú. Có thể tôi chủ quan, nhưng có lẽ rất nhiều người Việt cũng đồng ý với tôi ước mơ sau đây của nhạc sĩ TCS là một “tham vọng chính trị” lớn và quá đẹp: Đường ta đi “mai đây” có bước chân tự do Người Việt Nam “mai đây” sống với nhau thật thà Từ khắp chốn kéo về Từng bước chân vỡ bờ Người bước đi trong gió Tiếng lòng vui reo với ngọn cờ. -VL-
- 17.04.2009 vào lúc 11:14 pm Trịnh - Trung Lập viết: Chúng tôi là những thế hệ hậu sinh nên có thể không biết chuyện gì đã xảy ra và đang xảy ra giữa các Bậc Tiền Bối. Tuy thế, chúng tôi đã từng rất ngưỡng mộ các bài viết tưởng niệm Cố Nhạc sĩ TCS của các bạn bè của Ông trước đây, sau sự ra đi về cõi vĩnh hằng của Cố Nhạc sĩ. Những câu chuyện “Tình bạn” như thế đã để lại cho đời nhiều giai thoại văn học rất đẹp.
Chúng tôi rất đồng ý với Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân khi Ông cho rằng : “…..Chưa muộn đâu! Hãy nắm lấy cơ hội……”. Theo chúng tôi, Độc giả chắc chắn sẽ không quan tâm đến cái kết cục của câu chuyện tranh cãi này mà chỉ cảm thấy hơi đáng tiếc cho 1 cái gì hình như mới vừa mới mất đi.
Những câu chuyện thời trai trẻ của bạn bè Trịnh đã được người hâm mộ sưu tầm, đem ép lại một cách nâng niu trong tâm thức của họ. Bởi vì sau sự “đi về” của Trịnh, người ta càng cảm nhận âm nhạc của Trịnh hay hơn nhờ vào các bài viết đó.
Khi chúng tôi viết cái comment này. bên tai chúng tôi vẫn còn văng vẳng câu là lời rất phấn khích của Cố Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đoạn ghi âm trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê - Đài RFI năm 1992, khi TCS sang Canada thăm gia đình. Trong đoạn băng ghi âm đó, Trịnh Công Sơn đã rất say sưa kể lại những kỷ niệm về các cuộc triển lãm tranh chung với bạn bè. Ông đã thân thiết nêu đích danh tên của các bạn bè tri kỷ của Ông như : Họa sĩ ĐC, TTV, TC, ĐQE,…trong những ngày Ông đang say sưa tìm vào hội họa với những niềm vui mới. Chúng tôi cảm nhận được : Bạn bè là chỗ dựa tinh thần rất lớn của Trịnh.
Nhìn vào lịch sử, tuổi trẻ của chúng tôi nhận thấy : - Ai được Mỹ đào tạo chính quy cho bằng Tổng thống đầu tiên Ngô Đình Diệm, thế rồi Người Mỹ có bảo vệ Họ Ngô đâu ? - Ai đã từng thân Mỹ cho bằng Chính thể của Việt nam cộng hòa, thế mà chúng ta hãy nghe lại đoạn phát biểu đầy oán trách Hoa kỳ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu khi Ông chuẩn bị thoái vị. - Trước tình hình khó khăn của đất nước hiện nay, chúng tôi nghĩ mình nên làm một cái gì đó cụ thể hơn là : đặt vấn đề “cộng sản” hay “phi cộng sản”. Chiến tranh lạnh đã lỗi thời từ lâu rồi. Vấn đề chính là cùng nhau đối thoại để vượt qua suy thoái kinh tê (đây là vấn đề của toàn cầu, kể cả Hoa kỳ là nước vẫn bị suy thoái nặng nhất mà ?). Còn những vấn đề về nhân quyền và dân chủ, luật pháp mọi quốc gia đều cho phép đấu tranh bất bạo động mà. Chúng tôi thiết nghĩ, lẽ ra hơn lúc nào hết giờ đây chúng ta càng khâm phục TCS mới đúng chứ, vì trong thời chiến loạn lạc, súng đạn kề bên tai,thời ấy người ta xử tử có khi cũng đâu cần tòa án, vậy mà TCS vẫn dấn thân, viết và hát giữa sân trường đại học thủ đô, nói lên một cách rất rõ ràng cái chính kiến của mình mà !
Vậy thì có đáng gì để cố gắng khai quang cuộc đời Trịnh trong những trang sử cũ. Trước sau Trịnh cũng vẫn chỉ là một nhạc sĩ (có người cảm nhận là thi sĩ). Cuộc đời Trịnh chưa từng tham gia làm chính trị cho 1 chính thể nào nên các sử gia sau này sẽ không quan tâm để phân loại Ông là ai. Còn giới yêu nghệ thuật thì chỉ say sưa với cái chủ đề “Quê hương, tình yêu và thân phận” của Ông thôi.
Chúng ta hãy dừng lại khi vẫn còn kịp..!
Thành mến kính chào !
- 18.04.2009 vào lúc 12:27 am Maida viết: Đọc bài phản biện của cụ Nguyễn Đắc Xuân thất thú vị! Văn phong của một cụ già 73 tuổi, bệnh, yếu mà thật sắc sảo, đầy tính hùng biện!
Tôi thích thú không phải vì chuyện cá nhân giữa ông Trịnh Cung với nhóm bạn họ Trịnh thời đó và bây giờ nhưng thích thú vì được biết thêm tí chút về giai đoạn Trịnh Công Sơn ở Huế và “đi kinh tế mới”. Này nhé, cụ Nguyễn Đắc Xuân kể:
“Mà lạ thật, cuộc sống thiếu thốn mọi bề, nhưng tôi thấy Trịnh Công Sơn rất vui. Vì ai cũng thiếu thốn cả chứ có như “kẻ ăn không hết người lần không ra” như bây giờ đâu ! Tôi còn giữ được mấy tấm ảnh Trịnh Công Sơn chụp hồi đầu năm 1976, trông anh khoẻ và đẹp lắm.”
Rồi đoạn khác:
“Người anh càng ngày càng gầy rộc đi. Bởi thế mỗi năm có đến mấy bận Trịnh Công Sơn phải xin phép vào Thành phố Hồ Chí Minh thăm mẹ. Nói đúng hơn là thăm mẹ để được mẹ bồi dưỡng lấy lại sức khoẻ. Nhiều lần Trịnh Công Sơn vào ở nín trong Thành phố hàng mấy chục ngày, nhân đó anh tiếp xúc với bạn bè, văn nghệ sĩ của Thành phố.”
Cụ Nguyễn Đắc Xuân dẫn chứng thêm bài cũ:
“Đối với anh em văn nghệ sĩ lúc ấy đi sản xuất tự túc như một cuộc đi chơi. Sắn khoai thu hoạch được không đủ bù vào tiền mua gạo, thức ăn mang theo và tiền mua xăng ô-tô đi sản xuất.”
Tôi tự hỏi: Chứ không phải đấy là lối dụ dân đen bán nhà cửa đi kinh tế mới? Để rồi cuối cùng họ làm dân vỉa hè ngay tại thềm nhà cũ của mình và chủ mới căn nhà là cán bộ?
Cụ Nguyễn Đắc Xuân mượn lời của người uống cà phê ở đầu cầu Trường Tiền, hỏi Trịnh Cung:
[“So với nhiều họa sĩ trong Hội họa sĩ Trẻ Sài Gòn lúc đó, Trịnh Cung không có gì nổi trội lắm, vì lý do gì mà anh ấy lại được ‘Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ’? Chắc họa sĩ trẻ Trịnh Cung có công gì đó với chính quyền thân Mỹ anh mới được ưu ái đến thế chứ?” Tôi phản ảnh lại để anh rõ. Nếu có dịp anh nên giải đáp thắc mắc ấy.]
Toàn bài hình như có khoảng 10 lần cụ chịu khó nhắc đến cụm chữ dài lòng thoòng: Sĩ quan VNCH, sĩ quan chiến tranh chính trị hay sĩ quan tâm lý chiến…
Hơn nửa thế kỷ sau, mùi Tố Hữu của thời Nhân Văn và Giai phẩm vẫn còn phảng phất quanh đây!
Kính chúc cụ thượng thọ để có cơ hội viết thêm!
- 18.04.2009 vào lúc 6:43 am Ngoc My viết: Đọc xong bài viết của ông Nguyễn Đắc Xuân, tôi có 1 ít ý kiến như sau: 1/Ông Trịnh Cung không phải là người nói dối: như ông NĐX viết - Ông TC đã hỏi ông NĐX vào tháng ba, xác nhận sự thật từ miệng ông Xuân trước khi viết bài này. - Chính ông NĐX cho chi tiết Ngô Kha có cùng với TCS viết báo do ma75t trận các anh ủng hộ. 2/ Cái bất nhất trong bài viết của NĐX: -Ông NĐX không tin Ngô Kha mời anh Trung Uý VNCH vào mât khu nhưng sau đó cũng chính NĐX đổ hô là Ngô Kha chết là do TC báo cáo cho công an, cảnh sát. -Ông Xuân cho rằng TCS vui vẻ hẳn lên khi tham gia lao động sản xuất (thực như thế sao ông ?) thì làm sao có chuyện bà mẹ TCS phải gửi tiền, mỗi tháng 1 chỉ vàng cho cậu con gầy gỏ ốm yếu nhậu rượu với các ông . Nếu không có sự cung cấp của bà mẹ giàu có, tôi chắc rằng thiên tài TCS ngủm củ tỏi từ dạo ấy chứ không cần chờ tới năm 2001 . Và nếu lao động là vinh quang như thế mà TCS phải tìm cách trốn vào lại Sài Gòn. - Ông NĐX cho rằng ông TC chầu rià trong các vui của ông TCS và các bạn như thể ông TC lấy sang ba71t quàng làm họ, nhưng cũng chính ông xác nhận rằng ông TCS, TC và Đinh Cường là ba người bạn thân nhất . 3/ Có gì sai đâu khi TC dùng chữ Sài Gòn . Nếu ông NĐX đi thực tế sâu sát với quần chúng thì ông sẽ thấy ngay cả người miền Bắc vào Nam chơi, họ bảo vào sài Gòn chứ không ai nói rằng đi vào thành phố Hồ Chính Minh . Đã có 1 thời là Leningrad nhưng bây giờ thành phố mang tên người Lênin của đất nước Liên Sô, bước quá độ lên chủ nghĩa Cộng Sản cũng phải trả lại cái tên cũ cho nó đấy ông NĐX ạ. 4/ Ông NĐX có là phãt tử thuận thành hay không ? Tôi thấy ông cứ nhắc đi nhắc lại hai chữ phật tử dành riêng cho ông và TCS mà thấy tội cho các phật tử thuận thành khác . Không phải phật tử thuận thành, tôi cũng biết sơ sơ căn bản của đạo Phật là không được Tham, Sân, Si mà cái đó ông đều có dư , căn bản của đạo Phật là Bi, Trí, Dũng mà ông Xuân đều thiếu. Cho tôi phân tích nhé : -Ông Xuân đe doạ ông Trịnh Cung nhiều lần trong bài viết (làm tôi nhớ đến những buổi đấu tố trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm hay trong phim Chúng Tôi Muốn Sống của đão diễn Vĩnh Noãn (tôi chắc là cùng gốc huế của các ông) : Ông đe doạ sẽ mang ông Trịnh Cung ra toà không những một mà vài ba lần. Lần thư nhất trong câu cuối của đoạn (4), chính ông viết “Nếu anh không có một lời xin lỗi thích đáng tôi tin những bạn bè, những người yêu Việt Nam từ suối nguồn âm nhạc Trịnh Công Sơn sẽ đưa anh ra toà .” Lần thứ hai, trong khúc gần cuối của đoạn (5), ông NĐX viết ông không kích động những người yêu nước nữa mà chỉ đe doạ trống rỗng, không cho biết ai sẽ là người “Nếu anh không trưng dẫn được nguồn tin chính xác thì anh sẽ phạm vào tội vu cáo trước pháp luật.” … và bài của ông NĐX kết thúc bằng câu cũng đe doạ TC 1 lần nữa trước khi dút lời “Trịnh Cung ơi! Chưa muộn đâu! Hãy nắm lấy cơ hội.” … là 1 phật tử thuận thành sao ông ác thế hở ông Nguyễn Đắc Xuân, ông kích động, ông đe doạ , ông bỏ tù một ông mà ông đã già quá, gần đất xa trời . Phật nào dám chứng dám cho dẫu ông có thành tâm đến đâu ông Xuân ạ . - Thiếu cái Dũng của đạo Phật: Ông NĐX kiên cường dám chống lại chính quyền Thiệu Kỳ khi ông là 1 sinh viên Phật Tử, ông chưa là thành viên của MTGPDT, nhưng khi ông đã là 1 đảng viên trung kiên của ĐCSVN thì sao, ông có cái quả cảm của ông TC đứng cùng đám thanh niên biểu tình chống bọn bành trướng Trung Quốc đang bị chà trộn với các CÁ như ông nhạc sĩ Chùm Khế Ngọt đã từng viết mà ai cũng biết thì ông TC đã biết trước ông ấy đã bị theo dõi như thế nào rồi ông NĐX ạ, còn ông những ngày ấy ông ở nơi mô, hay là “Một mình, một rượu, một đàn bà… ba cái lăng nhăng nó quấy ta ” - Gieo oán cho Trịng Cung: ông bảo ông TC làm sao được qua Mỹ du học lúc thanh niên, thế thì ông có bao giờ tư hỏi tại sao Mỹ cho ông và TC cùng qua Mỹ năm 2007 một lượt như thế ? - Ông NĐX lớn lên từ Huế, ông có cái đau của người dân Huế như TCS hay không “Chiều đi qua đồi cao, hát trên những xác người, tôi đã thấy tôi đã thấy những người nắm tay nhau chạy trốn” ? Chạy trốn ai thế thưa ông Xuân, và ngay cả sau này với những cuộc chạy trốn tràn ra biển cả, họ có phải là người Việt Nam hay không ? Họ có cần được bảo vệ, thương yêu hay không ? Ông NĐX có nhắc đến tình bạn giữa các ông với nhạc sĩ TCS, có nhắc đến Khánh Ly, làm tôi sực nhớ một câu hình như (không chắc lắm) của KL nếu không có tình yêu đất nước, xin đừng nói đến những tình yêu khác . 4/ Tôn Thất Lập không ở VN lúc TCS lên hát bài ‘Nối Vòng Tay Lớn” thì làm sao giựt microphone của TCS ? Chẳng lẽ ông NĐX không biết là người ta không cần có mặt nơi đó, họ vẫn có thể ra chỉ thị bằng miệng , đến như bác Hồ chết từ hổi não hồi nào mà vẫn còn có Đoàn Thanh Niên Thế Hệ HCM đó , có phải không? Nếu tôi nhớ không lầm bài hát Nối Vòng Tay lớn chỉ được hát trong 1 thời gian rất ngắn, không hiểu vì sao lãi câm tịt, thay bằng những lời hát second version “Từ bắc vô Nam tay cầm bó rau …” 5/ Có thật ngày ba mươi tháng tư là ngày vui sướng nhất đời của họ Trịnh ? Bài hát Nối Vòng Tay Lớn của ông TCS có thành sư thật như ông đã từng mong muốn hay không ? … hay là Anh em ta quay cuồng nắm tay nhau … vào trại cải tạo tập trung không ngày về, có được tự do ra thăm Hà Nội, Huế, Sài Gòn hay không sau ngày tháng tư lịch sử đó ? Nếu ông TCS không vỡ mộng vì ngày đó thì làm gì có bài hát “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui ” 6/ Có một bài thơ rất hay của thi sĩ Bùi Chí Vinh “Đêm Biên Giới ..”, có đăng ở tạp chí Da Màu này cách đây không lâu, đọc để thấy thấm thiá thân phận làm người Việt ông NĐX nhé . Còn nhiều điều muốn hỏi ông từ một người thuộc thế hệ trẻ hơn ông rất nhiều, nhưng thôi ông cũng đã quá già để có Bi Trí Dũng của một phật tử thuận thành , để có thể trả lời hay làm lại cho một đất nước Việt Nam tươi sáng hơn.
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 14:35:57 GMT -5
Như Quynh viết: Trước hết, xin được cám ơn bài viết này của Nguyễn Đắc Xuân và xin được bày tỏ sự thất vọng của riêng tôi. TCS cũng chỉ là một con người thường, ắt phải có tham vọng, có sân si. Trong bài viết trước của TC, TC dùng lời lẽ không đao to búa lớn như NĐX và cũng không hăm doạ nguời khác nhiều lần như NĐX. Theo tôi được biết, NĐX cũng đã qua tuổi tri thiên mệnh, lẽ nào lại làm dáng chữ nghĩa như thế? Thất vọng với cái cách mà những người được gọi là văn nghệ sĩ quay lưng múa bút vào nhau sau bài viết của TC. Thật sự NĐX, Lê Minh Quốc và một số văn nghệ sỹ khác đã lên tiếng sau bài viết của TC đang bênh vực TCS hay đang lên tiếng vì chính danh dự mình? vì chính ảo tưởng của mình?? - 18.04.2009 vào lúc 6:30 pm Hùng Trần viết: Trước đây không lâu tôi cũng đã “bênh vực” NS Trịnh Công Sơn khi có những người “kết tội” ông theo cộng sản. Tôi cho rằng ông chỉ là một trí thức thiên tả (nhiều lý tưởng nhưng không thực tế). Những điều ông viết như “20 năm nội chiến từng ngày” là điều cấm kỵ của một người cs. Ông cũng viết một ca khúc thương tiếc, lời lẽ rất chân thành, cho một sĩ quan cao cấp VNCH bị tử trận (Chuẩn tướng Lưu Kim Cương). Vân vân … Và vì thế tôi không mấy đồng tình với một số nhận định của họa sĩ Trịnh Cung, qua những sự kiện ông nêu ra (đúng sai, trung thật đến mức nào vẫn còn là điều tranh cải). Tôi chỉ cho rằng cái xu hướng, lập trường chính trị của một người nghệ sĩ thường khi yếu lòng này (đã bày tỏ qua các bản nhạc)nó ngã nghiêng, mâu thuẫn, nhiều thay đổi và phức tạp. Và cũng chẳng chỉ riêng ở ông thời đó hay liền sau năm 1975. Tuy nhiên, tôi đã không tham gia vào cuộc tranh luận sau bài viết của TC trên damau vì nghĩ rằng nó sẽ dấy lên rất nhiều phản ứng cảm tính. Nhất là sau khi TC có đăng một bài thơ với lời lẽ thật mạnh mẽ trên Tiền Vệ: Tay ngửa tay nâng … quên hận thù (http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=8223). Tôi đóan rồi ông sẽ bị đấu tố hội đồng như thời Nhân Văn Giai Phẩm khi có cơ hội. Thật không sai. Khó có những tranh luận trong hòan cảnh có những sự cố tình trả đũa, nhằm chà đạp nhân cách hơn là đi tìm chân lý thực sự. Chúng ta thấy đó đây có một số ý kiến thật ra không nhằm bênh vực TCS mà chỉ nhằm “đả” TC mà thôi. Tôi nghĩ cũng nực cười và mâu thuẫn ở một số người cho rằng ai nói TCS theo cộng sản là bôi nhọ ông, trong khi chính họ lại là người cs hay thân cộng. Họ vô tình tạo một ấn tượng rằng cs là cái gì thật xấu xa. Ai mà bị gán đã theo cs là một sự bôi bẩn, chụp mũ kinh tởm, chứ không là điều vinh hạnh. Bởi vì, dù bị gán ghép không đúng sự thật, hay mơ hồ - như bị gán cho là môn đệ của ông Ghandi, hay theo đạo Phật, hay cái gì đó quang vinh - đâu có ai phản ứng xua tay, giẫy nẩy như đỉa phải vôi, như phủ nhận là tòng phạm kẻ ác như thế? Riêng về bài viết này, thì tôi tin với nhiều người dân miền Nam, nhất là đại đa số người dân Huế, thì có lẽ “nhà nghiên cứu” Nguyễn Đắc Xuân là người Việt Nam cuối cùng mà người ta muốn nghe bàn luận cùng rao giảng về đạo lý, chính trực. Suốt mấy chục năm qua, dù là một trong những nhân vật (được cho là) trung tâm của sự kiện mấy ngàn người dân Huế bị thảm sát dịp Tết Mậu Thân, thế mà ông NĐX (và ông Hòang Phủ Ngọc Tường) vẫn im hơi lặng tiếng (hay ít nhất sự lên tiếng rất phiến diện, âm thầm, không mấy ai biết). Trong khi chính TCS còn phải xúc cảm viết lên bài hát với những câu … “chiều đi lên Bãi Dâu, hát trên những xác người” (nơi có nhiều mồ chôn tập thể) thì ông NĐX vẫn im lìm trước bao tiếng nói uất nghẹn, bao lời yêu cầu muốn sự thật của lịch sử được phơi bày, muốn công lý được giải quyết phân minh. Ông lặng câm trước bao kết án rằng ông là chánh án tòa án nhân dân, thậm chí là đao phủ thủ. Nay ông bất ngờ lên tiếng dài dòng chỉ vì TC cho rằng TCS cũng có tham vọng chính trị. Tại sao có sự khác biệt kỳ lạ này? Cuối cùng, thử hỏi mọi người sẽ trân trọng lắng nghe, hay tin tưởng vào những lời trình bày phân minh từ một người ít nhiều đã chứng minh sự dũng cảm, “uy vũ bất năng khuất” trong hòan cảnh của mình hiện nay như TC, hay từ một người đã bao năm im lặng, vô tâm trước những oan khiên của đồng bào cùng hiện tình bị hiếp đáp của đất nước? - 18.04.2009 vào lúc 8:04 pm tuấn nguyễn viết: Tôi không hiểu vì sao có nhiều người vẫn một mực bênh vực Trịnh Cung, cho rằng Trịnh Cung can đảm nói “sự thật”. “Thật” tới mức độ nào, có ai bảo đảm được không? Chuyện Tôn Thất Lập ở Đài Phát Thanh, chuyện ở nhà Đinh Cường… Sau khi đọc kỹ các bình luận tôi nhận thấy phần lớn người ta chỉ lấy mình ra để làm chuẩn khi đánh giá các sự việc. Ờ, ông Trịnh Cung chống cộng, hợp ý mình thì mình theo ổng. Ổng có nói tầm xàm bá láp mình cũng thấy lọt lỗ tai như thường. Như bình luận của ông/bà Maida, theo tôi đâu phải là bình luận. Đó là bài viết với giọng điệu mỉa mai, nhạo báng, không nói được gì ngoài cái tị hiềm nhỏ nhen của con người mình. - 18.04.2009 vào lúc 9:54 pm Cỏ cú viết: Tôi đã đọc bài này của NĐX khi mới vừa đăng tải trên website của HNV VN (bản full). Tôi có vài ý kiến sau: - Tôi rất thất vọng về tính “ấu trĩ” của NĐX trong những vấn đề có tính “chụp mũ” TC, là điều thường thấy của những người chuyên viết thuê cho báo chí lề phải! - NĐX thật là trẻ con khi đưa ra vấn đề “Nếu thơ ngây như thế thì có lẽ Ngô Kha đã mời nhiều người đã từng tham gia tranh đấu từ 1963 đến 1971 có biểu hiện “thân cộng” hơn là Trịnh Cung. Nhưng tôi chưa nghe Ngô Kha rủ ai cả. Và, hoạt động “nằm vùng” mà thơ ngây đến như thế thì có lẽ Ngô Kha đã bị bắt từ lâu rồi chứ không đợi chi đến năm 1971 vẫn còn được tự do đi ăn đầy năm con gái Trịnh Cung” - Chuyên gì cũng có thể xảy ra, nếu NK có rủ TC vào cứ thì cũng là điều bình thường. Bối cảnh khi ấy, có thể họ tin nhau, rủ nhau cùng đi CM. NK không ngây thơ, NK có lý của ông khi rủ TC! - Bây giờ, khi mọi việc đã qua rồi, người ta nhìn lại quá khứ với thái độ bao dung hơn, chứ nếu quay ngược lại thời điểm về cái gọi là “kiểm điểm TCS” và những banderole tẩy chay nhạc của ông, tôi chắc chắn nó ghê gớm lắm, nhất là với một người hiền từ, nhạy cảm như TCS! NĐX không thuyết phục được độc giả khi đặt vấn đề này ra kèm thêm một ít rộng lượng của các quan chức văn nghệ khi ấy. Tôi không tin! - Bài viết của NĐX một chiều, bao biện những điều không cần nói ra ai cũng biết. Nói chung là không có cái “chí khí” của người trí thức công bằng, minh xét… NĐX đã già rồi, trải nghiệm nhiều rồi, đã đến lúc cần viết lên những điều sự thật hơn, công minh hơn để lại cho đời sau. - Cuối cùng, nỗi thất vọng to lớn nhất của tôi khi đọc bài viết của NĐX là đoạn nói về “gái” của TCS và ông làm một sự so sánh rất trẻ con, rất ấu trĩ, rất hèn hạ là ví vợ của TC bây giờ cũng là “gái”. Đó không chỉ tự hạ uy tín của ông mà còn nói lên tính nhỏ nhen, ganh tị, muốn hạ bệ người khác bằng những cách không cao thượng. - 19.04.2009 vào lúc 12:21 am Hoài Tử viết: Đọc lá thư của ông Nguyễn Đắc Xuân người ta thấy ngay tích cách thiên lệch trong phê phán . So với bài của ông Trịnh Cung thì bài của NDX thật quá tầm thường và làm người đọc nghi ngờ những thực chất mà ông ta đưa ra vì sự thiên lệch đó . Nếy đi xa hơn, người đọc có thể nhìn NĐX như một kẽ “tôn sùng mù quáng” về TCS cũng như về Hồ Chí Minh . Khi tôn sùng mù quáng thì mọi biện minh đều thiên lệch mà vẫn cao cỗ cho mình là đúng . NĐX viết: “Tôi mừng anh là một sĩ quan chiến tranh chính trị của quân đội VNCH cũ mà hội nhập được một cách dễ dàng với cuộc sống của Sài Gòn đổi thành TP HCM. Anh có cuộc sống mới khá sung túc, làm việc có hiệu quả, nổi danh họa, cũng nổi danh viết, lại có bà vợ trẻ hơn 40 tuổi, có thêm con trai.” Đây là hành động bôi nhọ cá nhân trước khi kết án, tức là đã có chủ kiến, đã phán quyết như thế nào . NĐX viết: “Thế rồi, qua William Joiner Center, chúng ta có những ngày tháng 4 và 5 -2007 ngao du trên đất Mỹ. Giữa hai người, một kháng chiến chống Mỹ cũ và một cựu sĩ quan tâm lý chiến VNCH làm việc cho Mỹ, tuy quan điểm văn học nghệ thuật có khác nhau nhưng trong đời thường không có gì xung đột với nhau cả.” Cho thấy NĐX tự nhận là VC mà ông Trịnh Cung vẫn xem NĐX là bạn, đưa đi đây đó trong khi NĐX thì gườm ghè tư tưởng và hành động Trịnh Cung . Nên nhớ đời sống làm việc ở Mỹ không phải muốn nghĩ đi chơi dễ dàng mà Trịnh Cung đã dàn xếp để đi với người “bạn” cũ . Đây là khuyết điểm của phe trí thức tự do nói chung và Trịnh Cung nói riêng . Và bị VC lợi dụng. NĐX viết về Ngô Kha rũ Trịnh Cung vào bưng “- Ngô Kha là một thầy giáo, đỗ Cử nhân Luật, hoạt động chống chính quyền Sài Gòn lâu năm (ít nhất là từ 1966 đến 1971), sao lại thơ ngây đến mức rủ một sĩ quan chiến tranh chính trị của VNCH chưa từng có biểu hiện gì là có cảm tình với MTGP cả vào chiến khu?” Chuyện bạn bè thân thiết, ăn ngủ với nhau đã từng có những trường hợp VC nằm vùng rũ bạn vào bưng và cũng từng có người thành công cũng như thất bại . BIện minh này của NĐX thật quá thô thiển . NĐX viết: “Năm 1982, tôi được Thành ủy Huế cử vào TP HCM trưng bày giới thiệu văn hóa Huế ở Hội chợ tổ chức tại Vườn Tao Đàn cũ. (chắc bác sĩ Trương Thìn còn nhớ). Họa sĩ Tôn Thất Văn đến giúp tôi trang trí cho gian hàng Huế. Trong khi làm việc tôi hỏi: “Lúc nầy Trịnh Cung làm ăn ra sao. Tôi muốn gặp để thăm ông bạn làm thơ của tôi năm xưa?” Tôn Thất Văn bảo tôi “Anh ta đi học tập cải tạo mới về được mấy năm. Hiện nay đang loay hoay kiếm sống. Nhưng mà ông không nên chơi với cái anh chàng lừa thầy phản bạn ấy làm gì. Chinh Trịnh Cung là người đã từng tìm cách lật đổ thầy Tôn Thất Đào ở trường Mỹ thuật Huế, người đã thừa lệnh Hoàng Đức Nhã vô ra Huế phá anh em Phong trào đúc tượng Phan Bội Châu, và nghe nói cũng chính Trịnh Cung vào Trại Cải tạo đã tố cáo anh em họa sĩ là sĩ quan biệt phái ở Huế mà “trốn cải tạo”.v.v.” Dùng một lời phán quyết của một người nằm trong phe VC để cho là lời phán quyết một chiều kia là đúng thì biện luận này quả là … toà án VC. Nói chung bài “phản tỉnh” của NĐX không để người đọc tìm được một sự cố nào có thể gọi là khách quan để tìm hiểu mà chỉ là những biện luận để đã phavá đè bẹp ông Trịnh Cung - 19.04.2009 vào lúc 5:28 am mưa viết: Tôi thấy những người bình luận đã quá thiên lệch. Bài viết của ông NDX, bỏ qua những đoạn nói xỏ nói móc TC (và tôi nghĩ phần đó để họ tự hục hặc giận nhau cũng đủ rồi, chúng ta không nên bận tâm…), thì có rất nhìều chứng cớ (verifiable) phản bác lại những chỗ lấp liếm trong lập luận của TC. Cá nhân tôi thấy bài viết của TC khá mập mờ và không nhất quán, không giống như một người có tài cầm bút như ông có thể viết, và do đó tôi chỉ có thể kết luận rằng ông vẫn còn điều gì ẩn khuất. Dù sao tôi cũng thấy buồn là 2 người từ chỗ bạn bè, chỉ vì quan điểm chính trị mà nên nỗi tương tàn như vậy, một điều mà tôi nghĩ chính nhạc sĩ TCS không bao giờ đồng ý. Dù TCS vui hay buồn, sung sướng hay khổ sở trong suốt những năm sau 75 không ai trừ chính nhạc sĩ có thể biết được, vậy mà chúng ta lại vẫn cứ mang ra bàn cãi, chẳng qua chỉ là cái cớ để tranh cãi về chính trị hay sao. TCS sẽ buồn thế nào khi biết 30 sau những người con đất Việt vẫn còn cắn xé nhau như vậy? - 19.04.2009 vào lúc 2:22 pm Minh Tran Nguyen viết: Tôi thấy vấn đề bài viết của Trịnh Cung đơn giản thôi . Chúng ta không nên nói đến phạm trù nghệ thuật của Trịnh công Sơn (vì bài viết không nhắm vào nghệ thuật), không nên đề cập đến chuyện “thiên tài” hay “thiên tai” ; vì bài viết của Trịnh Cung đi qua nhiều giai đoạn lịch sử, viết lại những chi tiết lịch sử, tôi tin rằng để bài viết được thuyết phục và chúng ta tiếp tục đóng góp ý kiến, cách hay nhất là BBT Da Màu liên lạc tác giả Trịnh Cung để xác định hay trả lời các câu hỏi được nêu ra khắp nơi . Da Màu là website thường đăng thơ Trịnh Cung, chắc chắn liên lạc và yêu cầu ông trả lời không mấy khó khăn . Tôi đề nghị , nếu Trịnh Cung trả lời được các câu hỏi của các độc giả thì chúng ta tiếp tục bàn thảo . Vì độ chính xác của một bài viết liên quan đến lịch sử và chính trị là vô cùng cần thiết . Cá nhân tôi lúc nào cũng ủng hộ cách làm việc khoa học của Da Màu từ xưa nay . Để cáo buộc một người nào đó (không cần thiết phải là Trịnh Công Sơn hay các bạn bè được nhắc đến trong bài viết), Trịnh Cung nên xác quyết một cách vững vàng . Đơn giản chỉ có vậy . Tôi không làm điều gì mới mẻ . Chỉ tổng hợp các câu hỏi trên “mạng” : 1/ Ngày 30 tháng 4, 1975, theo các bài báo khác, Tôn Thất Lập không có mặt ở Sài Gòn, tại sao Trịnh Cung trích dẫn “đuổi ra khỏi phòng thu: “Mày có tư cách gì mà hát ở đây!”…? Có thật vậy không ? 2/ Xin anh xác nhận chuyện Ngô Kha mời một sĩ quan VNCH như anh vào bưng ? Lý do tại sao ? Không lẽ, một người phía bên kia đang hoạt động bí mật , không sợ hay sao ? 3/ Họa sĩ có thể liên lạc Nguyễn Hữu Đống xác nhận chuyện “TCS sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh” ? Chính phủ Dương Văn Minh ở cuối thời 75, một nhạc sĩ như TCS có tham vọng vào làm chức ấy có vẻ khó thuyết phục quá . Chức Quốc Vụ Khanh sẽ đem được gì cho TCS ? Xin họa sĩ làm rỏ thêm . 4/ Theo bài viết của Lê Minh Quốc, các nhân vật bác sĩ Trương Thìn và nhạc sĩ Miên Đức Thắng xác nhận không có mặt nhà họa sĩ Đinh Cường (1/5/1975), tại sao Trịnh Cung xác nhận họ có ở đó để (có thể) ký giấy miễn cải tạo cho Trịnh Cung (mà Trịnh Cung không nhận) ? Có thật vậy không ? Xin anh cho biết tại sao họ lại có quyền miễn cải tạo cho anh ? Theo tôi biết, chỉ có thể Đảng mới làm được điều này . Các người “đấu tranh” Sinh Viên thời đỏ, kiểu “đỏ 75″ thì có quyền gì ? 5/ Trịnh Cung trong trại cải tạo từ 1975-1978. Ông có xác nhận các thông tin được nghe khi trở về không ? làm sao kiểm chứng ? Ngoài các nhân vật được trích dẫn, từ nhà báo Chánh Trinh đến hoạ sĩ Tôn Thất Văn, đều đã qua đời . Điều đó không thể kiểm chứng . 6/ Riêng tôi không thích cách xác định một người bạn cũ kiểu “Đinh Cường trở lại Trường Mỹ Thuật Huế và được miễn đi học tập cải tạo nhờ vào việc đã tham gia các hoạt động đấu tranh chống VNCH”. Xin Trịnh Cung dẫn chứng thêm chi tiết , vì làm vậy có thể dẫn đến hậu quả không hay cho một người đã chọn Hoa Kỳ làm nơi trú thân, trong một cộng đồng chống cọng hải ngoại . Trịnh Cung thừa biết , nếu không cung cấp thông tin về việc chống VNCH, thì sẽ dẫn đến tai hại cho người bạn cũ . 7/ Trịnh Cung có thật sự đến với TCS với tư cách một người chính trực để giúp đở TCS ra khỏi “rượu, xu nịnh và gái” không ? Thiễn nghĩ , đó là vấn đề cá nhân của mỗi người . Còn rất nhiều các câu hỏi của nhiều người . Tiếc rằng, các nhân vật còn sống được nhắc đến lại không lên tiếng (dĩ nhiên, không nhất thiết phải là đồng loã). Tuy nhiên, để tránh tình trạng các bài viết vin vào thông tin Trịnh Cung để viết thêm (ví dụ kiểu “Nhờ sự tiết lộ của Trịnh Cung, …”, Đặng Văn Âu), tôi nghĩ nếu bài viết chính xác thì sự “tiết lộ” mới có giá trị để tin . Nếu họa sĩ Trịnh Cung không xác định được các chi tiết ông đưa ra , tôi nghĩ dành phần còn lại cho độc giả phán xét, bài viết có bao nhiêu % là trung thực . Còn các vấn đề nhận xét mang tính cá nhân về rượu, xu nịnh, gái , ẹtc cúa Trịnh Cung thì Trịnh Cung có toàn quyền phán xét . Các câu hỏi trên hoàn toàn mang lý tính, chứ không dựa vào cảm tính . Các câu hỏi đưa ra vì nó liên quan đến (có thể) hậu qủa hình ảnh của các nhân vật còn sống , và điều đó cần thiết được minh chứng . Đối với riêng tôi, nếu bài viết như bài viết Trịnh Cung mà tác giả không xác định được sự chính xác của những tư liệu mình đưa ra, thì xem như bài viết chỉ nhắm vào cá nhân để “đánh”, chứ không phải được viết với mục đích chung . Và nếu vậy thì nó không có giá trị gì để mãi công bàn luận thêm . Xin BBT Da Màu giúp đỡ - 20.04.2009 vào lúc 3:36 am phuong quy viết: Kính thưa các độc giả của Da màu. Chúng ta có thể chấm dứt những cãi vã bình luận về TCS được rồi. Tại sao bao nhiếu năm qua thoát cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, các ông còn nhiều hận thù thế Hãy mừng cho dân tộc ta không còn phải đổ máu vì bom đạn. Hãy đau những nỗi đau của dân tộc và đất nước trước nạn tham nhũng và vô cảm. Hãy nhìn lên Tây Nguyên, nhìn ra Hoàng Sa và có ông nào thực sự yêu nước thì hãy tự thiêu như HT Thích Quảng Đức năm xưa đi. Lảm nhảm mãi việc cá nhân những người nổi tiếng chẳng để làm gì. Hỡi tất cả các ông đang bênh vực cho Trịnh Cung, các ông còn mang lịch sử vào thù hận. - 20.04.2009 vào lúc 6:41 am Trịnh - Trung Lập viết: Gửi Tác giả Minh Tran Nguyen - Đồng ý với toàn bộ các câu hỏi 1 - 6 của Tác giả. - Tuy nhiên hoàn toàn không đồng ý với quan điểm mà Tác giả trình bày trong phần đầu : “….Tôi thấy vấn đề bài viết của Trịnh Cung đơn giản thôi . Chúng ta không nên nói đến phạm trù nghệ thuật của Trịnh công Sơn (vì bài viết không nhắm vào nghệ thuật), không nên đề cập đến chuyện “thiên tài” hay “thiên tai”….” Mong Tác giả đọc lại cái mục tiêu của diễn dàn “văn chương không biên giới của damau.org nhé ! Sau đây là chủ trương của damau.org xin được trích dẫn lại : “………….. Chủ trương của Da Màu là gì? Da Màu chủ trương một diễn đàn văn chương không biên giới, một diễn đàn mở rộng cho mọi khuynh hướng sáng tác, mọi tác giả, mọi khai phá đúng nghĩa. Da Màu chủ trương một nền văn chương Việt Nam không đặt trọng tâm và không lệ thuộc vào một thể chế chính trị nào. Da Màu là một mô hình tiên phong chủ xướng một đối thoại tự do giữa các ngôn ngữ, đặc biệt là giữa những ngôn ngữ bên lề và những ngôn ngữ có thế lực kinh tế và chính trị. Da Màu chủ trương thúc đẩy văn chương Việt Nam đương đại vượt những rào cản để đạt mức phổ quát trong bối cảnh toàn cầu hóa. Những biên giới trong văn chương là gì? Màu da, ngôn ngữ, văn hóa, giới tính, định hướng tính dục, tín ngưỡng là những biên giới trong văn chương. Lịch sử cá nhân, ý thức hệ và chính kiến là biên giới. Trong nước, ngoài nước, chính thống, ngoại vi cũng là biên giới. Những quan niệm thẩm mỹ khác biệt cũng là biên giới. Những áp đặt hay thiên kiến cũng là biên giới. Da Màu không chấp nhận bất cứ biên giới nào, trừ biên giới cuối cùng giữa văn chương và phi văn chương. …………..” Thiết nghĩ damau.org là một diễn đàn văn chương. Vụ án này giữa Nguyên đơn Trịnh Cung và Bị đơn Trịnh Công Sơn là 1 vụ án văn học thuần túy chứ không phải là một vụ án hình sự xử thường dân. Vì thế phải đề cập đến những vấn đề như tác phẩm, tài năng, đố kỵ, ẩn dụ, hoán dụ,…. Đó là chủ trương của “Văn chương không biên giới” nói trên. Damau.org không phải và càng không có chức năng của 1 tòa án, bạn nhé ! Thân ái, - 20.04.2009 vào lúc 6:56 am Chính Trực viết: Trịnh Cung phải trả lời những điều mà mọi người cho là Trịnh Cung viết sai, rồi chúng ta hay tranh luận tiếp. Nếu không, cãi nhau chỉ mất công. - 20.04.2009 vào lúc 7:19 am Minh Đức viết: Bàn về đoạn kết luận của buổi tọa đàm tại Huế phê phán TCS: “Kết luận của cuộc toạ đàm là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lúc chưa có hoàn cảnh quan hệ với Cách mạng thì có một quan điểm yêu nước chung chung, Sau khi quan hệ với cơ sở cách mạng (trong đó có Ngô Kha), quan điểm lập trường của Trịnh Công Sơn trong giai đoạn cuối của cuộc đấu tranh yêu nước đứng hẵn về phía Cách mạng. Như thế “công” của Trịnh Công Sơn lớn hơn ‘tội” của anh”. Theo như cách tôi hiểu lúc đầu Trịnh Công Sơn làm Ca Khúc Da Vàng, chỉ là nói lên nỗi khổ của chiến tranh. Giai đoạn này được những người trong buổi tọa đàm gọi là “quan điểm yêu nước chung chung”. Và giai đoạn gọi là “giai đoạn cuối của cuộc đấu tranh yêu nước đứng hẵn về phía Cách mạng” chính là giai đoạn sau 1968, với các tập Kinh Việt Nam, Ta Phải Thấy Mặt Trời. Lời của hai tập bài hát này cho thấy TCS đã đứng hẳn về phía Cách Mạng, nghĩa là phe CS, hô hào nổi dậy, lật đổ chính quyền miền Nam. Cô Vĩnh Trinh có nói rằng cứ xét các lời bài hát của TCS thì biết, thì trang web này (xin phép post lại link): www.angelfire.com/zine2/risingsun/Literature/TrinhCongSon_CoPhaiLaNhacSiPhanChien.htmltác giả chỉ thuần xét các lời bài hát của TCS trong các tập Kinh Việt Nam, Ta Phải Thấy Mặt Trời chứ không hề có quan hệ cá nhân gì với TCS mà cũng đưa ra kết luận giống như buổi tọa đàm của Hội Văn Nghệ Huế sau 1975, nghĩa là TCS đã đứng hẳn về phía Cách Mạng. Mà đứng hẳn về phía Cách Mạng thì đã rõ rành rành là có quan tâm đến chính trị, là không còn phi chính trị. Nhận xét của Hội Văn Nghệ đã xác nhận lập luận của Trịnh Cung rằng TCS không phải là phi chính trị, không phải là không quan tâm đến chính trị là đúng.
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 14:37:30 GMT -5
Du Ca viết: Tôi kg tin Trịnh Cung vì tôi vốn kg tin 1 người phản bạn. Nhưng tôi càng kg tin Cụ Nguyễn Đắc Xuân, vì rõ ràng cụ ấy viết tới viết lui viết xui viết ngược cũng là TCS nghiêng về cách mạng, nếu thế thì làm gì có bài Hát trên những xác người?… Phải chăng cụ NDX đang tuyên truyền chính trị? Tôi, cũng như nhiều người yêu nhạc Trịnh khác luôn tin rằng TCS là người phi chính trị, ông chỉ sáng tác những gì ông thấy, sáng tác từ cảm nhận sâu xa nỗi đau và tình yêu thương đồng loại. Xin các ông vốn đem nghệ thuật phục vụ chính trị hãy để cho nhạc sĩ tài ba này được yên giấc! - 21.04.2009 vào lúc 1:01 am lykhách viết: Tôi nhận thấy rằng chính ngay tại cái tựa đề ông Nguyễn Đắc Xuân viết: “Thư gởi họa sĩ Trịnh Cung về chuyện lừa người nổi tiếng vào… chuyện tuyên truyền chính trị rẻ tiền”!!! cũng đã là chuyện buồn cười. Cũng thông cảm cho ông, bởi ông phải sống ở trong một đất nước chẳng… “được quyền ăn nói và nghe như ý thích, mà phải luôn đi đúng lề bên phải. Nhưng cũng chẳng thể thông cảm cho ông, khi ông lại là một nhà cầm bút, mắng người khác…mắng bạn (khi bạn không còn), mà chính ông có được sự tự do xứng đáng của kẻ cầm viết, để nói những lời…phải trái trên kia không? Thưa ông, nói về TCS, thì cũng như nhắc về một người nào đó ở trong một giai đoạn lịch sử nào đó mà thôi. Có điều chi mà ầm ỷ? Cho rằng, hãy để TCS yên mồ mả, thì thật sự, ai chẳng muốn thế. Mà có ai nặng tiếng với ông ta đâu? Nhưng cái gì nó chưa được biết rõ thì cũng nên cần mang ra ánh sáng, để cho những người thuộc thế hệ tôi, (khi …MTGPMN vào, thì tôi cũng còn đang là học sinh trung học cấp 2, chứng kiến những sự đổi mới tài tình của đảng cộng sản, nên tôi vượt biên để tránh khỏi cái …vòng tay lớn…quá trớn dân tộc, của bao quý vị sinh trước tôi). Tôi tự hỏi tại sao NS TCS lại được nổi yêu chuộng ở trong nước nhiều như thế sau năm 1975? Dĩ nhiên đã có lắm người trả lời rồi rằng: lời hay nhạc đẹp, ý mông lung… Tôi cũng phải công nhận thế một phần, bởi từ nhỏ tôi cũng hay ê a hát dăm bài tình ca của Trịnh và cũng đôi khi làm mủi lòng đôi cô bé. Bên cạnh ấy, còn có nhiều lý do khác nữa, để người trong nước thích nhạc Trịnh đến độ tôn sùng. Thế nhưng, theo thiển ý của tôi. Rằng miền Bắc, dù đã có rất nhiều nhân tài nhạc sĩ và cũng hầu như là cái nôi nhân tài, nhưng chế độ cs đã thành công trong việc làm mai một những tâm hồn thơ nhạc đẹp, giết chết bao nhân tài ngay từ trong trứng nước. Sau năm 1975, nhạc Trịnh, vốn đã được ưa chuộng ở tại Miền Nam, và là một nhạc sĩ được sống và trưởng thành (cả về người về tài) trong cái nôi văn hóa của miền Nam (dù ông có cho miền Nam ra sao đi nữa), thì quả là một đóa hoa đẹp và lạ trong vườn bông…nhựa, cùng màu chán nản của chế độ! Thật ra, thì miền Nam có rất nhiều nhạc sĩ có những tác phẩm được yêu chuộng, mà nếu nhà cầm quyền cs đừng cấm đóan, cứ cho dân nghe, thì theo thiển ý tôi, nhạc TCS vẫn còn hay như thế, nhưng chẳng có nhiều kẻ tôn sùng đến như thế đâu ông ạ. Tại vì nếu được như thế, thì những kẻ yêu thơ nhạc tựa như đi dạo chợ hoa Nguyễn Huệ ngày Xuân vậy ông ạ. Bảo rằng, chơi với bạn, thì không nên phản bội bạn. Đúng, đó là lễ nghĩa, nhưng ở trong trường hợp này (HS TC & NS TCS), tôi không cho là nó rơi vào cái việc nghĩa tình ấy. Nếu ông có mạnh miệng lên tiếng, thì cũng nên khuyến khích quý ông bà cầm viết trong nước, cũng nên dám nói chút đỉnh về những bất công, khổ ải, những tai ương mà dân Việt Nam đã chịu một cách khốn khổ hơn, nhục nhằn hơn từ năm 1975 đến giờ. Thỉnh thoảng tôi cũng đọc báo trong nước, thấy mấy tờ báo quốc nội thật tội nghiệp. Bộ cho tới bây giờ mà kẻ “trí thức” còn chưa hiểu rằng chính mình phải quyền ăn nói tự do sao? Nếu hiểu thế, biết thế, mà không dám nói, thì việc chi phải mạnh miệng như thế trong việc cỏn con này. TCS có tham vọng về chính trị hay không, thì phải tìm hiểu thêm mới rõ, thế nhưng tôi nhận thấy rằng ns TCS đã có thái độ chính trị (khá rõ ràng hay quá lờ mờ?) khi ngày 30 tháng 4 năm 1975, lên đài phát thanh mà rống bài…Nối Vòng Tay Lớn… Ôi chao ơi, nghe sao mà nó cứ xót xa cho những gia đình tan nát, bao chia ly, bao nhục nhằn, và bao nhiêu vong hồn người bỏ thây nơi biển cả!… Tôi thật chỉ xót xa thôi, chẳng trách chi ns TCS, bởi: “Gặp thời thế thế thời phải thế!” - 21.04.2009 vào lúc 3:46 pm Trungthuc viết: - Vừa rồi có người ngồi bên quán cà-phê bên đầu cầu Trường Tiền đọc bài viết của anh, họ đặt câu hỏi: “So với nhiều họa sĩ trong Hội họa sĩ Trẻ Sài Gòn lúc đó, Trịnh Cung không có gì nổi trội lắm, vì lý do gì mà anh ấy lại được:“Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ” ? Chắc họa sĩ trẻ Trịnh Cung có công gì đó với chính quyền thân Mỹ anh mới được ưu ái đến thế chứ?” Tôi phản ảnh lại để anh rõ. Nếu có dịp anh nên giải đáp thắc mắc ấy. Tôi có thể trả lời thắc mắc này của ông Nguyễn Đắc Xuân: Đại Học và các trung tâm nghiên cứu của Mỹ đều độc lập, chính phủ Mỹ chẳng có quyền can thiệp và bắt buộc các cơ sở giáo dục này nhận dạy dỗ cho ai cả. Thời VNCH, các tin tức về những chương trình giáo dục của Mỹ đều được phổ biến rộng rãi trong nội bộ như ngày nay thôi. Có nghĩa là ngay cả dân sự lẫn quân sự đều được xin du học miễn là đạt được điều kiện yêu cầu về văn hóa cũng như English. Như SV thì chẳng cần hỏi ai cả miễn là trong tình trạng được hoãn dich, còn quân đội hay công chức thì phải được chấp thuận của cấp chỉ huy của mình. Thường thì chẳng có gì khó khăn để xin chấp thuận của cấp chỉ huy, ngoại trừ đương sự bị cấp trên trù dập. Phía Mỹ thì chỉ qua cửa ải văn bằng và Anh Ngữ mà thôi. Đã là nhà nghiên cứu mà ông Nguyễn Đắc Xuân không biết được điều này mà lại cho là vì có công nên Mỹ cho ông TC đi du học. Thật xui xẻo cho nước VN, toàn là người tự xưng là trí thức nhưng chẳng biết gì cả ! - 21.04.2009 vào lúc 4:43 pm nguyên mẫn viết: Đọc bài góp ý của Cò cú tôi tìm đến trang của Hội Nhà Văn Việt Nam (hoinhavanvietnam.vn)để tìm đọc bản “full” thư của ông Nguyễn Đắc Xuân gửi họa sĩ Trịnh Cung, (http://hoinhavanvietnam.vn/News.asp?cat=32&scat=&id=1254#), nhưng chỉ thấy cái tên bài lững lờ như sau: Thư của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân gởi họa sĩ Trịnh Cung… Nguyễn Đắc Xuân ( 4/15/2009 11:43:14 AM ) còn thân bài thì không thấy, có lẽ đã bị gỡ đi! Bài trước đó của ộng Xuân có tựa “Anh Tố Hữu” thì vẫn còn nguyên si, thân lẫn tựa! Một chi tiếttrong bài góp ý của Hoài Tử: “NĐX viết: “Thế rồi, qua William Joiner Center, chúng ta có những ngày tháng 4 và 5 -2007 ngao du trên đất Mỹ. Giữa hai người, một kháng chiến chống Mỹ cũ và một cựu sĩ quan tâm lý chiến VNCH làm việc cho Mỹ, tuy quan điểm văn học nghệ thuật có khác nhau nhưng trong đời thường không có gì xung đột với nhau cả.” Cho thấy NĐX tự nhận là VC mà ông Trịnh Cung vẫn xem NĐX là bạn, đưa đi đây đó trong khi NĐX thì gườm ghè tư tưởng và hành động Trịnh Cung . Nên nhớ đời sống làm việc ở Mỹ không phải muốn nghĩ đi chơi dễ dàng mà Trịnh Cung đã dàn xếp để đi với người “bạn” cũ . Đây là khuyết điểm của phe trí thức tự do nói chung và Trịnh Cung nói riêng . Và bị VC lợi dụng.” Đúng ra cả hai ông, Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Cung, được trung tâm William Joiner mời sang Mỹ tham dự hội thảo. Không rõ vào dịp ở Mỹ đó, “cái ông kháng chiến chống Mỹ cũ” có nhìn ông họa sĩ đi chung với mình chỉ là “một cựu sĩ quan tâm lý chiến VNCH”, lại thêm cái đuôi “làm việc cho Mỹ”, như ông viết trong thư không? - 21.04.2009 vào lúc 8:12 pm Luat su Tran viết: Tôi thấy mọi người nên tập trung vào mức độ % sự thật các chi tiết ông NĐX đưa ra chứng minh, không nên bàn về tư tưởng thái độ chính trị của ông NĐX. Qua một số chi tiết, tôi tạm rút ra kết luận (cho riêng mình và viết lên đây) về đề tài NS TCS được khơi mào bởi TC như sau: - Ông NĐX phủ nhận hoàn toàn những tình tiết mà ông TC đưa ra có liên quan đến ông ấy. Điều này muốn hay không chúng ta phải tôn trọng ý kiến của ông NĐX. - Ông NĐX có đưa ra một số tình tiết liên quan đến những người đang sống (HS ĐC, BS Tr.Th …). Tôi và mọi người cần những người này xác nhận là có thêm kết luận về sự thật của vấn đề này. - Tình tiết: NS TTL đuổi NS TCS ra khỏi phòng thu Đài Phát Thanh Sài Gòn trưa 30/04/1975 1 lần nữa được xác nhận là sai sự thật. Trân trọng. - 23.04.2009 vào lúc 10:30 am Núi Ngự viết: Kính ông Nguyễn Đắc Xuân, Trong bài ông có viết: (trích) “Rồi một hôm đi ngang qua trường Đại học Sư phạm, tôi thấy mặt trước trường treo một tấm banderole to tướng mang dòng chữ xanh rờn: “Hạ bệ Phạm Duy-Hoàng Thi Thơ và Trịnh Công Sơn”. Tôi hơi bất ngờ nhưng rồi tôi cũng hiểu được. Tôi nghĩ ngay đến mối quan hệ giữa một số anh em Phong trào ở Đại học Sư phạm với những người mà sau nầy gọi là “các ông Ba mươi” ở Sài Gòn…. Khẩu hiệu tranh đấu treo lên thì rất dễ nhưng lấy xuống thì cả một vấn đề. Tôi cũng như nhiều người bạn yêu quý Trịnh Công Sơn thấy việc sinh viên Đại học Sư phạm Huế đặt thái độ chính trị của Trịnh Công Sơn ngang với Phạm Duy và Hoàng Thi Thơ là không đúng với thực tế nhưng không ai dám lên tiếng bảo vệ. … Vì thế có nhiều người đến Hội Văn nghệ than phiền với tôi về tấm banderole nêu trên, tôi vẫn ngậm câm. Trịnh Công Sơn rất buồn, không ngờ anh về quê hương lại bị giội một gáo nước lạnh như thế.” (hết trích) Tôi là một cựu sinh viên trường ĐHSP Huế, cũng thường có mặt tại trường trong những ngày sôi động của giai đoạn mới giải phóng nhưng sao không thấy banderole này (?). Ở trường ĐHSP hồi đó, các anh như Tr. Th., L.V.D., N.V.Đ.,… phụ trách phong trào, là những người đã có quá trình hoạt động một số năm trước đó chứ đâu chỉ là “Ông ba mươi”. Hơn nữa, SV Huế nói chung không đánh đồng TCS với PD về mặt chính trị; không đánh đồng về mặt âm nhạc TCS với HTT, do đó tôi nghĩ rất khó có băng rôn “hạ bệ” 3 người nói trên đồng thời. (Tôi có hỏi một số người cũ ở trường ĐHSP chuyện này thì không ai khẳng định có chuyện hạ bệ kiểu treo băng rôn như thế này. Chỉ có một số buổi các ông HPNT, NĐX được mời đến nói chuyện với SV ở Phòng BIII4 trường ĐHSP, khi có người hỏi về việc đánh giá những tác phẩm của một số nhạc sĩ, văn sĩ miền nam, các vị này trả lời đó là văn hóa lai căng, đồi trụy, cần dẹp bỏ. Tôi cũng thông cảm cho câu trả lời của các vị này vì không khí của giai đoạn đó là như thế!) Qua đoạn viết trên của ông, có thể gây cho người đọc ấn tượng không tốt về SV Huế, cho rằng SV Huế hời hợt, nông nổi; TCS bị giới trẻ “giội gáo nước lạnh như thế”… Chắc ông không nhớ, giai đoạn ấy bên cạnh những bài ca cách mạng thì những bài hát như “Nối vòng tay lớn”, “Ta thấy gì đêm nay”,… của TCS vẫn vang lên trong những buổi mít tinh, tuần hành; những bài hát của Miên Đức Thắng, Tôn Thất Lập, Trương Quốc Khánh chen lẫn những bài hát của Huy Thục, Phương Nam, Huỳnh Minh Siêng,… trong những đêm văn nghệ ở GĐ 1, ĐHSP hay GĐ C của ĐHKH,… Những vị phụ trách phong trào SV của ĐH Huế, của trường ĐHSP hồi ấy vẫn còn đó. Xin ông Nguyễn Đắc Xuân vui lòng nói rõ hơn về những thắc mắc này cũng như đính chính giúp những điểm chưa chính xác. Kính - 29.04.2009 vào lúc 8:19 am uongnuocbenbosuoi viết: Tôi ko phải là ông NDX, có tìm thấy Link có lời bài hát của TCS (1985): www.tcs-home.org/songs/titles/NgonLuaVinhCuuPhần nhạc tôi chưa nghe. Còn về phần ca từ, tôi có vài lời: “NGỌN LỬA VĨNH CỬU” nằm bên tường thành Kremli ở MOSCOW là ngọn lửa tưởng nhớ những chiến binh, những người con dũng cảm của nước Nga đã hi sinh trong cuộc chiến tranh vệ quốc chống lại phát xít Đức, đẩy lui quân Đức khỏi ngoại ô Moscow và góp phần cùng quân đội đồng minh (Anh-Mỹ) cứu châu Âu khỏi ách phát-xít Hít Le trong thế chiến II. Vào những năm chẵn kỷ niệm chiến thắng phát xít Đức tại Nga (ngày 9/5), nước Nga dưới chế độ CS trước kia cũng như chế độ hiện nay và ngay cả những tổng thống, thủ tướng các nước phương Tây (Anh, Pháp, Mỹ….) đều tới đài tưởng niệm này đặt vòng hoa tưởng niệm những người Nga đã hy sinh vì hòa bình thế giới, chống lại thảm họa phát xít. Vì vậy dù ko quan tâm đến chuyện NS TCS có tham gia chính trị hay không (tôi chỉ quan tâm tới những bài hát của NS), nhân đây tôi chỉ muốn nói rằng: việc NS TCS có bài hát viết về NLVC ở Moscow cũng là chuyện bình thường: các bài các hát của TCS thường thiên về tinh thần yêu nước, phản chiến, kêu gọi hòa bình, tính nhân văn, mà NLVC ở Moscow chính là hiện thân của tinh thần yêu nước và tính nhân văn vậy. (Lưu ý: cần tránh hiểu nhầm tượng đài NLVC là biểu trưng của CNCS). - 02.05.2009 vào lúc 2:15 pm Phú Thư viết: Thưa ông Nguyễn, Dưới đây là câu nói của ông được đăng trên báo Thanh Niên, thời điểm và nội hoàn toàn sai với những gì ông đã viết trên đây cũng như NS Tôn Thất Lập đã kể. Theo ông thì ai là người chịu trách nhiệm cho những sự bịa đặt này? “…Cuối tháng 4.1975, Tôn Thất Lập, Nguyễn Xuân Lập, Võ Quê, Thái Ngọc San và tôi đang ở Hà Nội. Anh Lập chia tay chúng tôi, dẫn một phái đoàn thanh niên sang Pháp. Nếu tháng 5.1975 mà chưa giải phóng miền Nam thì Lập sẽ tiếp tục đưa đoàn đi Canada…” Nguyễn Đắc Xuân (Trích Thanh Niên) “…Từ ngày 8/1/1975 đến ngày 2/2/1975 cả 3 chúng tôi được các tổ chức quốc tế ở Canada và Bỉ mời sang… Chúng tôi cũng được mời sang Mỹ dự một vài cuộc mit-ting, nhưng khi đến biên giới thì họ ngăn không cho qua, chúng tôi phải về Pháp…Các tổ chức của Pháp đã giữ chúng tôi lại. Đến tháng 8/75 tôi mới về Việt Nam…” Tôn Thất Lập (Trích Vietnamnet) Ngọn lửa vĩnh cửu ở Matxcơva Trịnh Công Sơn, 1985 music sheet Từ Matx-cơ-va có ngọn lửa ngày đêm cháy Từ Matx-cơ-va ngọn lửa ấy đời đời Lửa cháy trên nấm mộ thương nhớ Lửa thắp trên khăn quàng em bé Từ Matx-cơ-va có ngọn lửa ngày đêm cháy Lửa ấy trong tim hòa bình giữa lòng người. Nguồn Tập ca khúc Huyền thoại mẹ, nxb Văn Hoá, 8/1986 K7 Phạm Trọng Cầu (1990) Chú thích Theo Bửu Ý (Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ thiên tài, tr. 33), tháng 5/85, TCS đi viếng Moscou, Léningrad, ..., có lẽ nhân Ngày văn hoá VN, cho nên chúng tôi đề 1985 là năm sáng tác Ngọn lủa vĩnh cửu; bản này ít được nghe, kể cả những năm 80 ở VN. - 05.05.2009 vào lúc 4:42 pm
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 14:54:20 GMT -5
Cái đồng hồ của Lincoln và quan tài Trịnh công sơn Đinh Từ Thức Chia sẻ với bạn bè♦ 1 bình luận ♦ 14.04.2009 Từ đầu tháng Tư, bài viết của Trịnh Cung (TC) về “tham vọng chính trị” của Trịnh Công Sơn (TCS), cùng hàng loạt bài phản bác đã gây sôi nổi dư luận, cả trong và ngoài nước. Dư luận ngoài nước, có kẻ bênh người chê TC, và đa số được trình bầy một cách ôn hòa. Đó là điều đáng mừng. Dư luận trong nước, không đăng bài TC, nhưng hầu hết đều đánh TC không nương tay. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, vì đó là đường lối thông tin một chiều do Đảng chỉ huy. Theo tác giả TC, vốn là bạn thân của TCS trong nhiều năm, mục đích bài viết là cung cấp trọn vẹn sự thật về cuộc đời của nhạc sĩ họ Trịnh. Nhưng lại có những phản bác cho rằng nhiều điều họa sĩ họ Trịnh nêu ra không phải là sự thật. Việc tìm sự thật giữa họa sĩ và nhạc sĩ họ Trịnh khiến người viết liên tưởng tới câu truyện chung quanh cái đồng hồ của Tổng Thống Lincoln. Câu truyện khởi đầu từ gần 150 năm trước, năm 1861, và mới kết thúc vào tháng rồi, ngày 10 tháng 3, 2009. Đầu đuôi như sau: (Smithsonian Institution/AP) Thập niên 70 thế kỷ trước, Luật sư Douglas Stiles tại bang Illinois lần đầu tiên được nghe kể câu chuyện về người ông 5 đời là Jonathan Dillon, vốn là một di dân từ Ái Nhĩ Lan (Ireland) làm nghề sửa đồng hồ, đã khắc một “thông điệp bí mật” bên trong cái đồng hồ của Tổng Thống Abraham Lincoln, vào thời bùng nổ cuộc nội chiến Nam Bắc, tháng 4 năm 1861. Năm ngoái, một người họ hàng bên Ái Nhĩ Lan lại viết thư cho ông Stiles, nói rằng gia đình mới tìm được một lá thư của ông Dillon viết về chuyện thông điệp khắc trong đồng hồ. Thế là ông bắt đầu tìm kiếm trên internet. Kết quả cho biết: Ngoài những lời truyền tụng trong dòng họ, sự kiện rõ rệt hơn cả, là 103 năm trước, tháng 4 năm 1906, tờ The New York Times đã đăng bài báo cho biết, theo lời kể của ông Jonathan Dillon, lúc đó đã 84 tuổi, thì ông từng làm việc cho công ty M.W. Galt & Company, có cửa tiệm tại Pennsylvania Avenue ở Washington, D.C. Theo lời kể, vào năm 1861, khi ông đang làm việc, thì ông chủ Galt hớt hải chạy lên lầu cho biết: “Chiến tranh đã khởi sự; phát súng đầu tiên đã nổ.” Ông Dillon kể tiếp: “Vào lúc ấy, tôi có trong tay cái đồng hồ của Abraham Lincoln đang sửa.” Và để đánh dấu biến cố trọng đại này, ông Dillon đã khắc tên của chính mình trên ổ máy trong chiếc đồng hồ quả quýt bằng vàng của ông Lincoln, cùng với “thông điệp” nguyên văn: The first gun is fired. Slavery is dead. Thank God we have a President who at least will try. (Tạm dịch: “Súng đã nổ. Nạn nô lệ đã cáo chung. Cám ơn Chúa chúng ta có một Tổng Thống ít nhất sẽ cố gắng.”) Ông Dillon còn nói rằng về sau ông được biết đó là cái đồng hồ đầu tiên của Tổng Thống Lincoln, và rằng ông (Dillon) là người duy nhất trong tiệm có cảm tình với phía Liên Bang (Union). Sau khi khắc chữ, đồng hồ được đóng lại, gửi trả Bạch ốc. Tổng Thống Lincoln bị ám sát năm 1865, ông Dillon qua đời năm 1907. Cái đồng hồ của Lincoln mà ông Dillon đã đề cập trên tờ New York Times năm 1906, nửa thế kỷ sau được một người cháu 4 đời của ông Lincoln viết di chúc để lại cho Viện Bảo tàng Quốc gia về Lịch sử Hoa Kỳ (National Museum of American History) vào năm 1958. Luật sư Stiles đã tiếp cận Ban Giám đốc Viện Bảo tàng. Ở đây cho biết cái đồng hồ thỉnh thoảng được trưng bầy cho công chúng coi, phần lớn giữ trong kho vì chỉ là một di vật nhỏ, và không ai được biết hay từng nghe đồn về chuyện có thông điệp bí mật khắc trong đó. Ông Giám đốc Brent Glass đồng ý cho mời một chuyên viên đồng hồ là ông George Thomas ở Maryland tới mở đồng hồ, để tìm hiểu sự thật. Lúc đầu, người ta định mở trong vòng kín đáo, nhưng vì đây là chuyện liên hệ tới lịch sử, nên đã quyết định cho mở công khai. Ngày 10 tháng 3, 2009, khoảng 40 người gồm giới truyền thông và quan chức viện bảo tàng, quy tụ trong một phòng họp để theo dõi việc truy tìm sự thật. Sau một chút khó khăn ban đầu mở cái đồng hồ cũ trên 150 năm, mọi người nín thở vào giờ phút ông Thomas vừa mở mặt sau đồng hồ, vừa nói: “Giờ lịch sử đã điểm. Có hay không có ghi khắc?” Rồi ông loan báo: “Có những chữ khắc!” Mọi người thở phào. Nhưng thông điệp bí mật không hoàn toàn giống với lời kể của ông Dillon hơn trăm năm trước. Khắp trên mặt sau ổ máy mỏng dính là những chữ khắc nhỏ li ti: Jonathan Dillon April 13-1861. Fort Sumpter was attacked by the rebels on the above date. J Dillon. (Jonathan Dillon 13 tháng Tư 1861. Đồn Sumpter đã bị loạn quân tấn công vào ngày trên. J Dillon.) Phía dưới bên trái nằm thẳng góc với những chữ này lại có khắc thêm: April 13- 1861 Washington thank God we have a government John Dillon. (13 tháng Tư 1861 Washington cảm tạ Chúa chúng ta có một chính quyền John Dillon.) Nằm ở góc giữa hai hàng chữ trên, có khắc mấy chữ: “LE Grofs Sept 1864 Wash DC,” và dưới cùng, trên cái đai vắt qua một bánh xe răng cưa, là hai chữ “Jeff Davis.” Người ta đoán, có thể đây là chữ do một thợ sửa đồng hồ khác khắc thêm sau này, và là người ủng hộ miền Nam, nên khắc tên của Tổng thống phe ly khai là Jeff Davis. Ngoài tên họ của mình, ông Dillon chỉ khắc có 24 chữ, nhưng đã có nhiều chỗ sai. Bên cạnh sai sót về đánh vần (Sumpter thừa chữ p), còn sai về ngày. Nội chiến bùng nổ ngày 12 tháng 4 khi quân ly khai tấn công đồn Sumter tại South Carolina, nhưng ông Dillon khắc là 13 tháng Tư. Sai lầm đáng chú ý hơn cả là chữ khắc trên đồng hồ đã khác với lời kể của chính ông. Người viết không trực tiếp quan sát vụ mở đồng hồ, mà đọc trên báo. Muốn chắc ăn, đã so sánh bài tường thuật trên hai nhật báo uy tín nhất nước Mỹ là New York Times với Washington Post. Về thứ tự các chữ khắc trên đồng hồ, hai báo tường thuật khác nhau. So sánh với hình chụp, New York Times mô tả gần với thực tế hơn (như đã trình bầy), trong khi theo Washington Post thì những chữ khắc của ông Dillon được xếp đặt như sau: Jonathan Dillon April 13-1861. Fort Sumpter [sic] was attacked by the rebels on the above date thank God we have a government. [He added “Washington” and his name again.] (Jonathan Dillon 13 tháng Tư 1861. Đồn Sumpter đã bị loạn quân tấn công vào ngày trên cảm tạ Chúa chúng ta có một chính quyền.’ [Ông ấy ghi xuống chữ “Washington” và tên ông ấy một lần nữa.]) Từ kinh nghiệm cái đồng hồ của ông Lincoln, khó ai có thể nói chắc có bao nhiêu phần trăm sự thật trong bài viết của ông TC, cũng như những lời phản bác về bài này. Chính tay ông Dillon đã khắc mấy chục chữ do ông là tác giả vào đồng hồ, nhưng lời kể lại của ông đã không giống hoàn toàn những gì ông khắc. Vậy, cho dù ông TC không chủ tâm nói sai, đã chắc gì ông nói đúng. Nhất là những sự việc ông không chứng kiến, mà chỉ nghe người khác nói lại. Như ông Dillon được nghe tin chiến tranh bùng nổ vào ngày 13 tháng 4, ông vội khắc trên đồng hồ súng bắt đầu nổ hôm ấy, nhưng thực ra chiến tranh khởi sự vào hôm trước. Ngay cả những lời lẽ và thái độ phản bác ông TC, ai biết chắc có bao nhiêu sự thực? Ví dụ, có ông kể rằng, vì giận thái độ “phản bạn” của TC, ông đã gỡ bức tranh do họa sĩ này vẽ vẫn trân quý treo trong phòng khách nhà mình, mang đến cho một chủ tiệm ăn, ông này tuy biết lai lịch bức tranh quý, nhưng vừa được nghe truyện xấu về người vẽ, đã dẫy nẩy ném trả tranh, giận dữ văng tục xua đi như đuổi tà. Không hiểu ông chủ tranh và ông chủ quán đạo đức cùng mình này có biết ngày nay nước Đức vẫn gìn giữ tranh của Hitler trong viện bảo tàng? Cuối cùng, ông chủ tranh đã phải vất tranh xuống một bến Cảng, còn mỉa mai sợ tranh do kẻ phản bạn vẽ làm ô nhiễm nước biển! Có bao nhiêu sự thật trong câu chuyện này? Dầu sao, trước những sự thật khó kiểm chứng, có một điều ai cũng thấy: TCS là “sản phẩm” của miền Nam vĩ tuyến 17. Chính dưới cái chế độ miền Bắc từng miệt thị gọi là “Ngụy” này, tài năng TCS đã có điều kiện phát triển tới cao độ. Rồi từ khi sống dưới chế độ cộng sản, với những người tự nhận mình là “Đỉnh cao trí tuệ,” TCS bắt đầu thui chột. Cộng sản không chỉ làm hại một mình TCS, mà đã làm hư đi những tài năng của nhiều thế hệ. Khởi đầu là những Phạm Quỳnh, Khái Hưng… bị thủ tiêu, rồi tới những Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo bị tàn lụi; chưa kể những tài năng khác bị làm cho thân bại danh liệt như Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Phùng Quán… của nhóm Nhân Văn và Giai Phẩm. Giả tỉ như bài viết của TC có những điểm không đúng với sự thật làm phương hại tới thân thế TCS, thì có thấm gì với những biện pháp tàn ác đảng Cộng sản đã và đang áp đặt lên những tài năng của đất nước. Báo Thanh Niên kết tội TC “ngậm máu phun người,” trong khi ký giả lớn của mình là Nguyễn Việt Chiến bị chế độ phun nọc độc, và bắt bỏ tù. Sao không dũng cảm bảo vệ đồng nghiệp, mà đổ xô đi đánh TC? Phải chăng vì “hắn” vốn là một “Sỹ quan Ngụy”? Có thể đánh Ngụy dễ dàng như đấm bị bông, còn nói xa gần tới Đảng thì quá rét! Thử tưởng tượng, TCS và TC là đôi bạn thân sống tại miền Bắc trước năm 1975: TC là một sỹ quan QĐND, biết rõ những liên lạc thầm kín của TCS với những người hoạt động cho phía bên kia. TC có bổn phận báo an ninh bắt TCS, và phải báo để khỏi liên lụy không? May mắn cả hai người đã sống tại miền Nam, nơi chẳng phải cái gì cũng tốt đẹp, nhưng ít nhất tình bạn được coi trọng hơn tình đảng, nên TCS chẳng những không bị bắt, còn được che chở để tự do sáng tác. Hàng loạt báo chí trong nước hùa nhau lên án TC là kẻ phản bạn, viết bài nói xấu bạn vào ngày giỗ. Dưới chế độ cộng sản, bạn bè — nhất là bạn đồng nghiệp trong giới văn học nghệ thuật — thường đánh nhau ngay khi còn sống, đánh theo lệnh Đảng để bảo vệ quyền lợi của mình. Không đợi chết rồi mới đánh, mà đánh cho chết, hoặc không ngóc đầu lên nổi. Ngày nay, ai cũng có thể dễ dàng lên mạng talawas bộ cũ, đọc hàng trăm bài của những “bạn văn nghệ” đánh nhóm Nhân Văn, Giai Phẩm dữ dội và bẩn thỉu như thế nào. Sao không thấy nhà đạo đức nào trong nước lên tiếng? Hay người ta cần bảo vệ TCS như là một “Anh hùng dân tộc”? Có vị anh hùng dân tộc nào khi xưa sáng chói cầm quân, được thế giới kính nể, rồi bị Đảng làm nhục bằng cách cho “cầm quần chị em” như Tướng Giáp? Có bao nhiêu người đã đứng lên bảo vệ ông? Báo trong nước còn lên án TC không tôn trọng sự thật. Cứ làm như Lăng ông Hồ ở khu Ba Đình là đền thờ Thần Sự Thật! Có bao nhiêu sự thật qua lời tuyên bố của ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc đối thoại trực tuyến với dân chúng vào ngày 9 tháng 2, 2007 rằng: “Tôi yêu nhất, quý nhất là sự trung thực và tôi cũng ghét nhất, giận nhất là sự giả dối.” Và cũng vào dịp này, ông Dũng đã tuyên bố, ông cấm tư nhân hóa báo chí, là “đúng theo ý chí nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân ta.” Có dân nước nào tuyệt đại đa số muốn được bịt miệng như thế? Hay chính vì “tuyệt đại đa số nhân dân ta” như thế, nên đã coi nhẹ sự thiếu thành thật của ông Dũng, và coi nặng sự thiếu thành thật của TC? Có bao nhiêu người coi trọng sự thật ở trong nước cảm thấy ngứa ngáy, khi hàng ngày sống chung với chuyện bịa (anh hùng Lê Văn Tám); nhất là khi có con học tại trường, hoặc chính mình cư ngụ tại đường mang tên anh hùng tí hon này? Có người sống tại miền Nam trước kia, căn cứ vào bài của TC mà nói “I told you so!” Đã nói rồi mà! Đó là “thằng làm lợi cho cộng sản, đâm sau lưng chiến sĩ!” Thay vì nói như vậy, quý vị này nên hãnh diện. Còn gì đẹp bằng một cuộc chiến đấu không phải chỉ để bảo vệ xóm làng bà con mình, mà còn bảo vệ cả những kẻ có thể đâm sau lưng mình! Hãy so sánh với hoàn cảnh của những người từng cầm súng ở phía bên kia. Họ chiến đấu không phải để bảo vệ cả những người có thế bất đồng ý kiến hay có thể đâm sau lưng họ. Họ chiến đấu mà không thể bảo vệ được chính bản thân và gia đình họ. Họ chết, họ phải hy sinh theo lệnh để bảo vệ những kẻ lập kế hoạch giết ông bà cha mẹ họ hàng bạn bè họ, trước khi giết hoặc hành hạ chính họ. Trong khi báo chí quốc doanh cộng sản “vơ vào,” tung hô TCS tận trời xanh, mà quý vị kiên trì lên án TCS, chẳng khác gì người có kim cương trong túi, mà dùng để đuổi gà, ném chó. Người ta đã có thể mở nắp đồng hồ của ông Lincoln để biết rõ đâu là sự thật. Nhưng người ta không thể mở nắp quan tài TCS để kiểm chứng lời nói của TC. Khi không thể biết chắc đâu là sự thật, thì nên chọn thái độ biết tới đâu, hay tới đó, thay vì ai cũng nghĩ rằng mình nắm trong tay sự thật tuyệt đối, và có quyền buộc tội kẻ khác.
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 15:01:09 GMT -5
Về Một Quãng Đời của Trịnh Công Sơn – trích đoạn hồi ký Nguyễn Thanh Ty Chia sẻ với bạn bè♦ 1 bình luận ♦ 9.04.2009 LTS: Tạp chí Da Màu vừa nhận được tập hồi ký Về Một Quãng Đời của Trịnh Công Sơn của tác giả Nguyễn Thanh Ty cùng với một số văn kiện khác liên quan đến một “vụ án văn học” trong đó nhiều nghi vấn nhắm vào một bài viết của tác giả Nguyễn Đắc Xuân, “Trịnh Công Sơn với cao nguyên bụi đỏ sương mù” vì có nhiều chi tiết sự kiện trùng lập khít khao với hồi ký Về Một Quãng Đời của Trịnh Công Sơn. Tác giả Nguyễn Thanh Ty, trong một thời gian khá lâu, có cơ hội sống chung với nhạc sĩ họ Trịnh. Đó là thời gian hai người học chung khóa 1 trường Sư Phạm Qui Nhơn (1962-64). Không những thế, do sự tình cờ của cuộc đời đưa đẩy, cả hai đều được bổ dụng về nhận việc tại Ty Tiểu Học Lâm Đồng, thị xã Bảo Lộc (B’Lao), lại thuê nhà ở chung, ăn chung, vui chơi với nhau qua một thời gian dài từ 1964 đến 1967. Tạp chí Da Màu sẽ đưa toàn bộ hồi ký Về Một Quãng Đời của Trịnh Công Sơn vào thư viện Trên Kệ Sách trong vài ngày tới để bạn đọc có cơ hội biết về một quãng thời gian quan trọng trong đời sống của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Phần trích đoạn dưới đây, Sinh Tử Phù, kể lại thời gian trong đó tác giả Nguyễn Thanh Ty chứng kiến những sự kiện chung quanh lần chào đời của tập “Ca Khúc Da Vàng.” Sinh Tử Phù Sau vụ rao tìm trên Đài phát thanh Đà Lạt và bị quở trách tại Ty, Sơn trở nên cần mẫn hơn, khuôn phép hơn. Ít đi lại Sài Gòn, Đà Lạt hơn. Thỉnh thoảng có đi cũng về kịp sáng thứ hai để đi dạy. Trong thời gian này, Sơn nhận được rất nhiều thư từ. Phong nào cũng dày cộm. Sơn dạy buổi sáng, nên người nhận thư là tôi. Nhìn con dấu bưu điện, tôi biết được là thư gửi đi từ Huế. Đó là thư của bạn Sơn. Cái tên người gửi ở góc trái phong bì lần đầu tôi được nghe, được thấy, lạ lắm. Đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ lúc nhận được những thư đó, Sơn bỗng nhiên thay đổi hẳn tâm tính. Lúc nào cũng có vẻ bồn chồn, lo lắng. Ít đi lang thang những buổi chiều nữa. Có lúc ngồi thẩn thờ, mắt đăm chiêu nhìn qua cửa sổ hằng giờ, yên lặng với khói thuốc. Có khi điếu thuốc từ lúc châm đến lúc tàn, Sơn chỉ rít một hai hơi, rồi quên bẵng đi để nó cháy trên hai ngón tay đến lúc rụi đi. Chiếc gạt tàn chưa hết ngày đã đầy ứ lên, tràn ra cả bên ngoài. Sơn đi mua khóa về khóa chặt vali để cất kỹ những bức thư ấy. Có thư vừa đọc xong, Sơn đem đốt ngay. Không ngăn nổi tò mò, một hôm tôi hỏi Sơn: - Dạo này tôi thấy ông không được vui. Có chuyện gì vậy? Sơn lãng tránh: - Đâu có gì! Chuyện nhà mà. - Sao dạo này ông có quá nhiều thư của ông Phủ, ông Tường gì đó, mà mỗi lần nhận thư, đọc thư xong, tôi thấy ông có vẻ lo lắng thế? - À! Bạn tôi đó. Ảnh báo cho tôi biết những chuyện không vui của gia đình tôi. Thấy nói chuyện gia đình, tôi không tiện hỏi thêm. Trước kia Sơn hay kể cho tôi nghe về gia đình anh, về hai đứa em. Em trai là Trịnh Quang Hà, em gái là Trịnh Vĩnh Thúy. Sơn mấy lần rũ tôi về Huế chơi để biết thú ngủ đò trên sông Hương, bánh bèo Âm phủ, cơm hến Vĩ Dạ… Tôi cũng muốn biết cố đô Huế một lần. Hẹn mãi. Nhưng lần nào về Nha Trang, mê sóng nước và thú săn bắn dưới biển tôi lại quên mất chuyện ngủ đò trên sông Hương. Đến nay tôi cũng chưa biết cầu Trường Tiền ‘sáu vài, mười hai nhịp’ ra sao. Bây giờ, đọc báo thấy nói Sơn có bảy anh em. Cô ca sĩ Vĩnh Trinh là út. Nếu cứ tính sinh năm một, năm 1957 ba Sơn mất, thì Vĩnh Trinh phải năm mươi tuổi hoặc hơn. Sau đó, Sơn lại thường xuyên đi Đà Lạt hơn. Nhưng không phải đến Đà Lạt. Sơn kể cho tôi nghe về một trang trại nào đó ở Phim Nôm, gần Đức Trọng, một quận của tỉnh Tuyên Đức. Sơn ở đó có khi hai, ba ngày với vài người bạn để bàn chuyện làm ăn. (Sơn không nói tên những người đó). Có lần Sơn rủ tôi làm ăn chung. Lương mỗi tháng mười ngàn. Tối trố mắt kinh ngạc: - Công chuyện gì mà lương mỗi tháng mười ngàn? Họa là làm cho Việt Cộng ? Sơn xua tay, gạt ngang: - Nhảm! Ông không làm thì thôi. Nói bậy chết có ngày! Tôi cười hì hì rồi quên đi. Một lần, Sơn về sau hai ngày bàn chuyện làm ăn, khoe với tôi mọi việc đều tốt đẹp và được đãi một chầu ‘Cà phê cứt chồn’ nhớ đời. Sơn vui vẻ kể: - Hồi giờ nghe nói cà phê chồn, mấy tiệm đều quảng cáo cà phê cứt chồn, giờ mới biết là láo hết. Làm gì có mà bán. Một đồn điền cà phê mênh mông, cho người đi nhặt cả tuần lễ, chưa chắc có được một ký. Chồn nó lựa những trái cà phê chín đỏ để ăn, rồi ỉa ra hột lẫn trong phân. Chủ đồn điền biệt phái một hay hai người đi lượm những hột đó, đem về phơi khô, rang, tẩm. Sau nhiều giai đoạn chế biến mới thành cà phê uống được. Không đủ biếu quan đầu tỉnh, đầu quận thì làm gì có mà bán ra thị trường . Tôi vẫn thắc mắc: - Cả một rừng cà phê bạt ngàn mà ông nói lượm không được một ký? - Đúng vậy! Người ta không đợi cà phê chín mới hái. Nó sẽ rụng xuống đất hết. Trái vừa già có màu xanh đen là người ta đã hái rồi. Nói là hái chứ thật ra tuốt hay suốt. Trái cà phê mọc thành từng chùm dài như tiêu hay chùm ruột. - Ông uống thấy mùi vị nó ra sao? Có bay mùi chồn không? - Không! Nó có mùi thơm đặc biệt lắm. Cái mùi nó quyện trong hơi nóng bốc khói là là trên miệng chén, tỏa hương chầm chậm, thơm lâu lắm. Tôi nhâm nhi từng chút một để cho cái lưỡi và cái lổ mũi tôi thưởng thức hết cái ngon của nửa tách cà phê. Chỉ có nửa tách thôi, suốt một đêm hai con mắt tôi thao láo, không nhắm được. Đến bây giờ, (lúc Sơn về kể) tôi vẫn tỉnh táo mà không cảm thấy mệt. Nghe nói, tôi đâm thèm và ao ước: - Ông có xin họ một ít không? Đem ra pha thử cho tôi uống một chút? - Ở đó mà ham! Tôi lên xuống cả tháng nay, giờ mới được đãi có nửa tách. Một tách còn chưa có thì làm gì họ cho một ít mang về. Vả lại, ai mở mồm xin, ‘ốt dột’ chết! Hè năm 1965, tôi mãi mê vui đùa với nắng gió, sóng nước ở bãi biển Nha trang nên quên lời hẹn với Sơn ra Huế để Sơn dẫn tôi đi thăm thú các nơi. Hết hè, tuy vẫn còn luyến tiếc những ngày vui trôi qua quá mau, tôi cũng phải trở về Bảo Lộc để kịp ngày khai giảng niên học mới. Trở lại ngôi nhà trọ, tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy Sơn đã có mặt ở đây rồi. Căn phòng bừa bộn, bẩn thỉu. Toàn là tàn thuốc lá. Chỗ nào cũng đầy tro tàn. Bao thuốc lá Bastos xanh trống không xếp đầy chung quanh tường, cao gần tới đầu gối. Sơn nằm dài trên đi văng. Mùng vẫn buông, ám khói vàng khè. Dưới gầm bàn giỏ rác đầy ứ. Giấy loại quay ronéo vàng xỉn, vo tròn, xé nát vất đầy mặt đất. Xác cà phê khô đóng mốc xanh, trắng vương vãi chỗ này một nhúm, chỗ kia một tụm. Tôi la lên: - Ông không về Huế nghỉ hè sao? - Không! Tôi ở lại đây luôn. Cũng không về Sài Gòn. Sơn uể oải vừa chui ra khỏi mùng vừa nói. - Còn lại một mình bà Phi có nấu cơm cho ông không? Tôi hỏi thêm. - Không! Sơn lắc đầu. Tôi ăn cơm bữa ở Ngọc Sơn. Tám đồng một bữa. Siêng thì đi ăn, làm biếng thì ở nhà gặm bánh mì. Bà Phi về Sài Gòn cả tháng nay rồi. Cô người làm cũng về quê luôn. Tôi nhìn Sơn ái ngại. Sơn xanh hẳn. Mặt hốc hác. Tóc râu bờm xờm. Người đã ốm o sẵn, nay lại càng gầy thêm. Gầy rạc. Bộ đồ pijama trở nên rộng thùng thình, nhàu nát, đen xỉn. Có lẽ ba tháng nay không giặt. Nhưng đạc biệt nét mặt Sơn rất vui và rạng rỡ. Vừa xếp dọn lại chỗ nằm của mình, tôi vừa trò chuyện: - Ông làm gì mà nằm ép rệp ở đây tới ba tháng lận! Không buồn à? Sơn phấn khích chìa tập nhạc ra khoe với tôi: - Công trình ba tháng đó! Tôi cầm xấp bản thảo, liếc qua trang đầu có nhan đề ‘CA KHÚC DA VÀNG’. Lật thêm mấy tờ bên dưới thấy những bản nhạc có tựa đề rất lạ như ‘Gia tài của Mẹ’- ‘Đàn bò vào thành phố’- ‘Người già và em bé’- ‘Người con gái Việt Nam da vàng’… với những lời ca lạ lẫm, khác hẵn với những lời trong tình ca đến 180 độ. Tôi ngờ vực có một cái gì đó đã thay đổi con người Sơn. Sơn đã lột xác. Tôi chăm chú nhìn Sơn để tìm xem cái gì khác trên khuôn mặt xương xương kia. Nhưng tôi không nhìn thấy gì cả. Chỉ trong đôi mắt, sau lần kính cận, ánh lên vẽ khác thường. Tôi chưa xác định được rõ ràng là cái gì. Có một cái gì đó mơ hồ lấp ló trong trí tôi rồi vụt biến mất. Cái mơ hồ đó tôi chưa kịp đặt tên cho nó, và cũng chưa nghĩ ra được một chữ thích hợp cho trạng thái đó trong lúc này. Thấy tôi im lặng lật hết tờ này qua tờ khác, Sơn hỏi: - Ông thấy sao? Được chứ? - Tôi mới đọc lời thôi! Chưa biết nhạc ra sao! Chưa có ý kiến được. Thôi bây giờ ta đi ăn cơm. Tối nay ông hát cho tôi nghe thử vài bài được không? Sơn đồng ý. Chúng tôi ra Ngọc Sơn ăn cơm chiều. Cơm nước xong, chúng tôi lững thững đi ngược về hướng bờ hồ để lên Câu lạc bộ uống cà phê, ngắm lại cảnh sương chiều bốc dần lên từ chân cầu nhà Thủy Tạ hình bát giác sơn màu đỏ chói và cái cây chết khô giữa hồ. đứng một mình, cô độc. Tối đó Sơn hát cho tôi nghe một vài bài tiêu biểu trong tập ‘Ca khúc da vàng’. Đến những đoạn như ‘Gia tài của Mẹ: một bọn lai căng… một lũ bội tình’ hay như ‘Đại bác đêm đêm dội về thành phố! Người phu quét đường dừng chỗi lắng nghe’ hoặc như ‘Tôi có người yêu chết trận đêm qua, chết thật tình cờ…’ tôi bỗng nổi da gà. Lời ca thật xúc động. Nó xoáy sâu vào tim người nghe rồi chuyền lên óc làm cho rúng động tâm can, tỏa lan dần cơ thể làm cho tứ chi bãi hoải. Sơn ngừng hát, đưa mắt hỏi tôi. Đột nhiên trong óc tôi lóe lên một tia chớp: tôi đã thấy rõ hình dáng của nó và tìm ra được cái tên của nó mà buổi chiều tôi chỉ cảm biết mà không nghỉ ra được. Tôi buột miệng la lên: Sinh tử phù. Sơn ngạc nhiên trố mắt nhìn tôi, chặp lâu mới hỏi: - Ông nói ‘sinh tử phù’ là ý nghĩa gì? Thời gian đó Sơn chỉ đọc sách Pháp. Hình như đang đọc ‘Cánh cửa hẹp’ và ‘Buồn nôn’. Tôi thì mê luyện chưởng Kim Dung. Tôi giảng giải sơ lược về môn pháp cấy sinh tử phù cho Sơn nghe. Sơn càng thắc mắc: - Vậy thì cái chuyện cấy sinh tử phù của ông ăn nhập gì đến tôi? Tôi chậm rãi, buồn rầu trả lời Sơn: - Ông đã bị cái ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nào đó cấy ‘sinh tử phù’ vào người rồi. Ông còn nhớ có lần ông rủ tôi làm việc với nhóm của ông ở Phim Nôm, trả lương tháng mười ngàn không? Tôi nói đùa: họa may làm cho Việt Cộng, ông giãy nãy la oai oái. Và những lần ông đốt những xấp thư của ông Tường không? Bây giờ trong vòng ba tháng, ông đã sáng tác một đống nhạc, chẳng bù với hai bài ‘Chiều một mình qua phố’ và ‘Lời buồn thánh’ phải mất hơn sáu tháng? Bây giờ trong nhạc ông không còn những sợi nắng thủy tinh, những lá me bay, những tay gầy guộc nhỏ, những sõi đá biết nhớ biết đau mà toàn những xác chết, những bom đạn, mìn chông, bội phản… Những loại từ này không hợp với con người ông. Tôi e rằng ông đã bị tiêm nhiễm sinh tử phù Việt Cộng của ông Tường cấy vào người ông quá lậm rồi! Sơn phản đối kịch liệt: - Thôi đừng giỡn cha nội! Cha giỡn kiểu đó chết tôi nghe! Từ đó, chúng tôi im lặng không ai nói với ai lời nào nữa cho đến lúc tắt đèn đi ngủ. Dần dà trong bọn chúng tôi ai cũng biết Sơn vừa sáng tác một tập nhạc mới. Lại chia làm hai phe. Lúc đó đâu đã có từ ‘phản chiến’ để chỉ loại nhạc này. Chúng tôi cứ ngâm nga mỗi bài vài câu. Phe thích thì cứ khoái… ‘Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…’ ca cẩm suốt ngày. Phe chê thì: - Xí! nhạc Việt Cộng! Cha nội Sơn theo Việt Cộng rồi! Tuy nhiên, sau đó lại quên lãng đi. Chúng tôi vẫn lại bù khú cà phê, bi da, xập xám, vui vẽ ồn ào như trước. Nhưng không ai để ý thấy rằng khi đám nhà binh như Vĩnh, Ngự, Tinh, Thành nhập bọn là Sơn tìm cách lãng tránh. Nhất là lúc có mặt hai chàng Thành, chi khu phó và Tinh, an ninh quân đội. Có lần trong bữa nhậu vui vẽ, không biết vô tình hay hữu ý, trung úy Thành vừa cười vừa nói: - Này mấy ông giáo! Tôi xin nói trước, bạn thì bạn, chơi thì chơi, nhưng ông nào theo Việt Cộng thì chúng tôi vẫn cứ bắt như thường đó! Nói xong, anh ta cười hì hì, rồi giơ cao ly lên: - Nào dô! Dô! Lúc về, Sơn nói riêng với tôi: - Chơi với mấy cha nhà binh, ghê thấy mẹ! Thời gian sau, Sơn rất bận rộn. Đi đi, về về, Sài Gòn, Đà Lạt liên tục. Thường xuyên bỏ trường, lớp hơn trước. Nhưng thời gian đi không lâu. Có khi hai ngày. Có lúc ba ngày. Ông già Thống từ ngày được ông trưởng giáo hào phóng cho 100 điểm, há miệng mắc quai, không còn biết than thở với ai, đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Sơn cho tôi biết là đang chuẩn bị in tập ‘Ca khúc da vàng’ và khoe với tôi là giới sinh viên thích lắm. Họ đang yêu cầu có những buổi hát ngoài trời gọi là ‘du ca’. Và Sơn cũng hé cho tôi biết một vài sinh viên có nhiệt tâm đấu tranh như Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Văn Toại… sẵn sàng giúp Sơn thực hiện những buổi trình diễn ấy. Những điều Sơn kể và những cái tên xa lạ không ăn nhập gì đến đời sống đang tươi đẹp của tôi nên nó từ tai này qua tai kia trôi tuột đi, chốc lát tôi quên hết. Khi Sơn đi vắng, tôi còn vô khối bạn bè để vui chơi. Nào Tín, nào Bạch, Đạo, Lãng, Tâm mập, Tâm lùn, Hinh, Sang, Hiện, Thao, Rầm, Nhượng… Tuần này xuống Tân Hà, đến nhà ông Hiệu trưởng Ngọc hạ cờ tây. Tuần sau kéo nhau vào ấp Lam Sơn. Hai bên đường vào ấp trồng toàn hoa anh đào, nên còn có tên gọi rất thơ mộng là Đào Hoa thôn. Chúng tôi vào đây để đến nhà ông Tề ngắm phong lan. Ông Tề tuy là nhà nông nhưng có tâm hồn nghệ sĩ. Trên gác Nghinh Phong của ông có đủ loại phong lan mà ông sưu tầm được. Trăm màu, trăm vẻ. Tuần khác lại cùng các cô giáo trẻ Nghiên, Châu, Hải, Trang… đi dạo suối Đại Bình, cách Bảo Lộc chừng vài cây số. Cứ thế, ngoài việc dạy dỗ các em học sinh, tuổi trẻ của tôi đã trải qua những ngày tháng tươi vui, đáng sống trong cái quận lỵ bé nhỏ, mà mới ngày nào tôi gặp Sơn ở bến xe đò một buổi chiều cuối tuần đìu hiu có mưa rã rích. Buồn thúi ruột. Tháng sáu năm 1966, Tâm nhập ngũ. Sơn chuyển qua phòng Tâm. Hai chúng tôi ở hai phòng riêng biệt. Trừ những lúc đi ăn cơm, uống cà phê, chơi bi da chung với nhau, Sơn ở lì trong phòng. Sơn không còn thú ngồi trước hiên nhà, chờ ngắm cô Ngà đi lễ mỗi buổi chiều với chiếc áo dài lụa màu mỡ gà sáng lóa trong ánh nắng xiên khoai sắp tắt. Bây giờ chỉ còn tiếng chuông nhà thờ quyện bước chân đi và gió chiều nhẹ đuổi theo, khẻ rung tà áo. Hai bên đường, đám lau trắng đã nở hết bông chỉ còn lại những thân xương khô quắt chỉa lên trời. Giáng sinh năm đó tôi cưới vợ và thuê căn lầu của nhà may Tân Việt để ở. Sơn vẫn ở một mình trong căn nhà bà Phi. Mỗi buổi sáng đi dạy, đi ngang nhà chúng tôi, thỉnh thoảng Sơn tạt vào xin vợ tôi ly sữa dằn bụng. Nhất là những ngày cuối tháng. Bây giờ Sơn không còn tươi vui như xưa. Sơn mệt nhọc trong dáng đi và nhiều suy tư, âu lo hằn trên vầng trán. Nguyễn Thanh Ty Minh Đức viết: Trích: “Và Sơn cũng hé cho tôi biết một vài sinh viên có nhiệt tâm đấu tranh như Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Văn Toại… sẵn sàng giúp Sơn thực hiện những buổi trình diễn ấy.” Phải chăng tác giả muốn nhắc đến Đoàn Văn Toại nhưng viết lộn thành “Nguyễn Văn Toại”? Đây là một đoạn văn nói về các chi tiết liên quan đến sự ra đời của Ca Khúc Da Vàng. Phản chiến, đòi hòa bình là một trong những chiến thuật của phe Cộng Sản trong cuộc Chiến Tranh Lạnh, giữa hai khối CS và tư bản. Phe Cộng Sản sử dụng chiêu bài phản đối chiến tranh, đòi hòa bình như là sợi dây trói tay phe tư bản, để cho phe tư bản khỏi chống trả lại trong khi Cộng Sản tấn công tư bản tới tấp. Trong lòng xã hội Cộng Sản thì CS cấm tuyệt đối tư tưởng phản chiến nhưng đồng thời cho cán bộ đi reo rắc tư tưởng phản chiến trong lòng xã hội địch. Yêu chuộng hòa bình là tình cảm cao đẹp, nhưng chỉ nhìn vào những gì trước mắt mà phản đối chiến tranh, ca ngợi hòa bình mà không thấy được chiêu bài phản chiến, hòa bình là một phần trong chiến dịch bành trướng bằng quân sự của bộ máy chiến tranh khổng lồ bên phía Cộng Sản thì vô tình trở thành một con rối cho người giựt dây, cuối cùng thì từ lòng yêu chuộng hòa bình lại biến thành một cái bánh xe trong guồng máy chiến tranh khổng lồ đó, lại đi phục vụ cho kẻ hiếu chiến, gây ra chiến tranh. Ngay từ lúc mới thành lập, năm 1922 Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản đã đưa ra tài liệu nói rằng nghệ sĩ và giáo sự đại học là đối tượng họ nhắm vào trong xã hội tư bản để lôi kéo, biến những người này làm công cụ tuyên truyền cho họ. Nghệ sĩ và giáo sư đại học là giới thích theo đuổi các lý tưởng cao đẹp, mà lại không bị quyền lợi cá nhân chi phối việc họ ưa thích lý tưởng, đồng thời là những người có ảnh hưởng đến quần chúng. Nghệ sĩ có ảnh hưởng đến khán giả, giáo sư đại học có ảnh hưởng đến sinh viên, lại được xã hội kính trọng. - 22.04.2009
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 15:13:58 GMT -5
Nhân đọc bản dịch bài “Người già em bé” của Trịnh Công Sơn Trần Doãn Nho Chia sẻ với bạn bè♦ 2 bình luận ♦ 9.12.2008 Tôn Thất Quỳnh Du cho rằng: “Giải pháp cho một khó khăn cụ thể về dịch thuật luôn luôn nằm trong ngôn ngữ đích, dù cội nguồn vấn đề thì ở ngôn ngữ gốc. Khi đọc cần đắm mình trong ngôn ngữ gốc, nhưng khi đặt bút thì nên hướng về ngôn ngữ đích, theo nghĩa rộng nhất của ‘ngôn ngữ’, bao gồm những liên quan chặt chẽ tới tư duy, tập quán và văn hóa, Tư duy còn vướng bận với ngôn ngữ gốc thường ít nhạy bén với những giải pháp đẹp có thể tìm được trong ngôn ngữ đích.” (Ám thị ngôn ngữ, Da Màu 4/11/08). Tôi đồng ý với nhận xét này. Nhưng làm sao “đắm mình” mà không “vướng bận”? Khó quá! Dịch - một bài thơ chẳng hạn – ra một ngôn ngữ khác, theo tôi hiểu, người dịch có thể phải trải qua ba lần dịch. Trước hết, người dịch phải “dịch” bài thơ đó từ tiếng Việt ra tiếng Việt, nghĩa là phải sắp xếp câu, chữ (và có lúc phải biết rõ liên hệ giữa bài thơ và hiện thực mà nó đề cập) làm sao để hiểu hết và hiểu đúng ý nghĩa của nó, tức là “đắm mình trong ngôn ngữ gốc”; thứ đến là dịch cái mình hiểu sang ngôn ngữ thứ hai; sau cùng phải “dịch” cái mà mình đã dịch sang cấu trúc nghệ thuật của ngôn ngữ mới để người ta có thể thể hiểu và cảm được, nghĩa là phải “nhạy bén với những giải pháp đẹp” trong ngôn ngữ dịch. Trong thực tế, có nhiều bài thơ, bài văn hay lời nhạc tiếng Việt, là người Việt, ta cứ đọc, cứ nghe, cứ ngâm nga hay hát chúng mà không cần phải hiểu các sự kiện diễn ra hay hiểu hết ý nghĩa của nó. Nhạc Trịnh Công Sơn là một điển hình. Chẳng hạn như: “Trời còn làm mưa mưa rơi mưa rơi từng phiến băng dài trên hai tay xuôi, tuổi buồn như lá gió theo tận cuối trời” hay “Bài ca dao trên cồn đá, trên môi hờn, xin đừng kể lại tích xưa buồn hơn, đợi chờ năm làm gió qua truông thiên đàng,” vân vân. Những ca từ như thế, nội chuyện làm sao để “đắm mình” trong tiếng Việt đã là một vấn đề rồi, nói gì đến việc dịch ra một ngôn ngữ khác! Đặng Tiến, trong bài viết “Trịnh Công Sơn, tiếng hát Hoà Bình,” nhận xét TCS hay có những “lời nhập đề tưng tửng” như: “Đại bác đêm đêm dội về thành phố/Người phu quét đường ngừng chổi lắng nghe” hay những “lời tưng tửng tàn độc” như “Từng vạn chuyến xe claymore lựu đạn/Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành”. Tưng tửng, nghĩa là không đầu không đuôi, không lý giải gì hết. Nhưng nói tưng tửng, có lẽ câu mở đầu của bài “Người già em bé’ còn “tưng tửng” hơn mấy câu Đặng Tiến trích dẫn. Chẳng thế mà, trong lời bàn của Ban Biên Tập Da Màu về bản dịch bài hát “Người già em bé” của Joseph Đỗ Vinh và Eric Scigliano có đoạn : “Câu mở đầu của bài hát Trịnh Công Sơn đã là một thử thách cho người dịch, “Ghế đá công viên dời ra đường phố.” Tại sao ghế đá lại bị dời ra đường phố? Ghế đá này ở đâu, lúc trước ở trong một công viên tọa lạc ngay trong thành phố, hay ở một chỗ nào khác? Câu dịch trong tiếng Anh, “On a park bench dragged into the town” có cùng một nghĩa như câu mở đầu trong nguyên bản? Động từ “dragged” có lẽ không hẳn là “dời”? Còn “the town” thì sao? Tại sao là “the” town mà không chỉ là “ (a) town”? “Town” đây có phải là thành phố Sàigòn, Huế, hay bất cứ một tỉnh lỵ nào đó trên nước Việt Nam trong thời chiến?” (The old man and the child, Da Màu 1/12/08) Câu hỏi này nằm trong cái “dịch” đầu tiên trong mấy cái dịch mà tôi đề cập ở trên. Tức là phải “dịch” câu đó ra tiếng Việt, nghĩa là phải hiểu ý nghĩa thật sự của nó, trước khi chuyển sang tiếng Anh. “Đắm mình trong ngôn ngữ” ở đây sẽ không chỉ là ngôn ngữ mà còn là những sự kiện xoay quanh cách sử dụng ngôn ngữ, tức là bối cảnh phát sinh ra văn bản. Có người hiểu câu “Ghế đá công viên dời ra đường phố,” không dính líu gì đến hiện thực bên ngoài, mà chỉ là một ẩn dụ tác giả dùng để ám chỉ một cái gì đó, sự biến dịch, tính cách phù du…của cuộc sống chẳng hạn. Joseph Đỗ Vinh và Eric Scigliano hiểu ca từ trên một cách cụ thể hơn: Trên một chiếc ghế công viên (a park bench) – không phải là “ghế đá” - được ai đó kéo lê (dragged) vào trong thành phố (town), có một ông già và một em bé. Ông già thì ngồi co ro, buồn, đứa bé thì lõa lồ, khóc. Cả hai đều đói. Từ chiếc ghế đó, họ họ nghe bom rơi, đạn lạc, nghe tiếng nổ, nhìn thấy hàng cây nghiêng ngả, người chạy loạn, cảnh hỏa châu rơi… tóm lại họ sống trong cảnh chiến tranh thống khổ. Nếu dựa trên văn bản, cách hiểu trên không có gì sai. Và tôi nghĩ hầu hết mọi người đều hiểu như thế. Và có lẽ cũng chẳng có ai buồn hỏi câu tiếp theo: tại sao hai người lại ngồi trên một cái ghế bị kéo ra ngoài phố, mà không ngồi chỗ khác? Trịnh Công Sơn mà! Ông đã viết “gọi nắng, trên vai em gầy…”; ông đã viết “dài tay em mấy…”, vân vân và vân vân thì việc ông bảo “người già em bé ngồi trên chiếc ghế bị dời ra phố” thì đâu có sao mà phải thắc mắc! Là một người sống cùng thành phố với TCS, cùng chứng kiến những biến động chính trị và xã hội của những năm đầu thập niên 1960, tôi “dịch” bản nhạc này ra tiếng Việt một cách hoàn toàn khác. TCS viết “Người già em bé”vào năm 1965, một trong những thời điểm sôi động nhất của miền Trung, nhất là tại Huế. Từ mùa hè năm 1963 cho đến 1966, và rồi những năm sau đó, nhiều và nhiều cuộc xuống đường, bãi khóa diễn ra trên thành phố Huế do Giáo hội Phật giáo hay do sinh viên học sinh tổ chức chống lại các chính phủ miền Nam, để đòi dân chủ, đòi hòa bình. Một thành phố vốn lặng lẽ, bình yên, bỗng nhiên sôi động lên với những cuộc biểu tình liên tục. Người dân Huế nhiều lần tham dự hay chứng kiến khung cảnh người và biểu ngữ ngập tràn các đường phố, thép gai giăng ở nhiều ngã đường, lựu đạn cay bay đầy phố. Trong những lúc có biểu tình, bãi khóa, bãi thị như thế, chính quyền thành phố thường ra lệnh giới nghiêm, có lúc ngay cả giữa ban ngày để tránh tụ tập biểu tình. Bất cứ ai lang thang ngoài đường không có lý do chính đáng đều có thể bị cảnh sát chận bắt. Cũng có khi tuy không có giới nghiêm, nhưng do lời kêu gọi của những tổ chức biểu tình, học sinh thì bãi khóa, các chợ thì bãi thị, các tiệm buôn bán đóng cửa. Thành thử nhiều lúc, tuy ban ngày, chỉ trừ những nơi mà người ta tụ tập biểu tình, còn thì đường phố vắng tanh. Dân chúng thường ở nhà để tránh tai bay vạ gió. Trong nhiều lần, để chống trả với cảnh sát dã chiến đến giải tán biểu tình, sinh viên học sinh thường mang ra đường bất cứ vật gì càng nặng càng tốt có thể trở thành chướng ngại vật để ngăn cản xe và cảnh sát. Huế có nhiều công viên và ở các công viên thường có những chiếc ghê làm bằng đá cẩm thạch hay đúc bằng bê tông cốt sắt. Những vật nặng như thế này là một trong những vật lý tưởng và thuận tiện (vì ở gần đường phố) được sinh viên học sinh kéo ra giữa đường phố. “Ghế đá công viên dời ra đường phố” là hình ảnh khá quen thuộc đối với người dân xứ Huế thời đó. Hiểu như thế và tôi tin tôi hiểu đúng, thì ý nghĩa những lời ca trở nên khá rõ ràng. Nó không mang tính ẩn dụ nào mà là một hiện thực. Trước hết, ta sẽ có “ghế đá công viên” chứ không phải chỉ là “ghế công viên” (park bench), không phải chỉ là một ghế mà là những ghế (benches) và đó là những ghế đá thực sự (marble/concrete benches = những chiếc ghế làm bằng đá hoa cương hay đúc bê tông để tránh bị hư do mưa nắng). Những chiếc ghế đá đó được chuyển (moved) ra khỏi công viên chứ không chỉ là kéo lê (dragged); chuyển ra và đặt nằm hẳn trên đường phố (streets) chứ không phải là vào trong (into) phố (town). “Marble benches have been moved to streets from parks." Và trên những chiếc ghế đó, khi nằm ngang giữa đường phố, không hề có em bé nào hay ông già nào ngồi trên đó cả (vì ngồi để làm gì?) Những người già cả vô gia cư hay những em bé mồ côi ăn xin thỉnh thoảng mới đến ghế đá công viên, vì nơi họ kiếm ăn phải là ở chợ hay ở các cửa tiệm dọc theo hè phố chính mà đó cũng là nơi mà họ nằm ngủ ban đêm. Cảnh xuống đường và giới nghiêm khiến cho việc kiếm sống hàng ngày bị ảnh hưởng. Khi chợ búa sinh hoạt bình thường, họ có cơ hội kiếm được miếng ăn, vì có người mua kẻ bán. Trong những lúc có biểu tình hay có giới nghiêm thì chợ búa và phố xá vắng vẻ khiến cho việc kiếm ăn của họ trở nên bội phần khó khăn. Chính vì thế mà có cảnh người già “thiu thiu ngủ”, rồi “nghe tiếng nổ” (đây thường là tiếng nổ của các trái lựu đạn cay giải tán biểu tình) và nhìn qua phố chợ lúc đó hoàn toàn vắng vẻ và buồn đến đỏ mắt vì chẳng có ai qua lại để xin ăn. Riêng câu: “Khi chiến tranh về đốt lửa quê hương”, theo trong mạch văn của bài hát, thì nên hiểu là “chiến trận” (battles) hay chiến trường (battlefields) chứ không phải là “chiến tranh” (war). Thực tế là chiến tranh đã hiện hữu rồi, nhưng trước đó, các trận đánh chỉ diễn ra đâu đó ở vùng cận sơn hay các làng mạc xa xôi mà người thành phố chỉ nghe kể lại hay đọc trên báo. Bây giờ, cảnh chiến trường diễn ra ngay giữa đường phố với cảnh tên bay đạn lạc, có cả người chết, người bị thương. “Từng cuộn giây gai” là cảnh cảnh sát và quân đội giăng giây thép gai trên đường phố để ngăn cản bước tiến của đoàn biểu tình. Khi Cảnh sát dã chiến giải tán biểu tình, người ta chạy tán loạn, nhiều lúc liều lĩnh chui qua các hàng thép gai để tránh bị cảnh sát vây bắt, cho nên thép gai “xé nát da người.” Cảnh sát bắn phi tiễn, ném lựu đạn cay, tiếng nổ ầm ầm chẳng khác gì cảnh ngoài chiến trường. Những tiếng nổ khiến cho những hàng cây hai bên đường chao động, chìm trong hơi cay mịt mù. “Từng bàn chân quen” ở đây là tả cảnh những người biểu tình bỏ chạy vào các nhà dọc theo đường phố hay vào trong chợ. “Chân quen” có thể mô tả sự kiện người ta đi biểu tình nhiều lần quá đến gần như quen thuộc với cảnh giải tán biểu tình mà cũng có thể mô tả sự quen biết giữa bạn bè cùng đi biểu tình nhiều lần với nhau. “Từng vùng đêm đen hỏa châu thắp đỏ” được dịch “Piece by piece, flares tear the night apart” (hỏa châu xé đêm ra từng mảnh). Về phương diện văn chương, câu dịch thật hay, nhưng không sát. Như ta biết, các trái hỏa châu được bắn lên không trung là nhằm mục đích soi sáng một vùng nào đó để máy bay nhìn thấy mục tiêu mà phản kích. Thành thử, ta nên hiểu câu trên là: các trái hỏa châu chiếu sáng (thắp đỏ) từng khoảng bóng tối trong đêm. Trên đây, tôi cung cấp một số dữ kiện liên hệ đến bối cảnh của “Người già em bé” với hy vọng sẽ giúp cho những người dịch sau này có thêm chi tiết để hiểu rõ hơn ý nghĩa của ca từ. Như thế tôi đã “dịch” (ra tiếng Việt) văn bản “Người già em bé” một cách hiện thực, xuất phát từ kinh nghiệm của chính tôi. Có lẽ cách hiểu quá hiện thực như thế sẽ làm mất đi tính cách “hàm hồ,” tính cách ẩn dụ vốn là một trong những đặc tính đáng yêu của văn chương. Nhưng đành vậy. Và nhấp nhận cách “dịch” như thế, thì bản dịch tiếng Anh, khi hoàn tất, chắc chắn sẽ rất khác với bản dịch của Joseph Đỗ Vinh và Eric Scigliano. Và tôi cho rằng ngay cả nếu hai dịch giả Joseph Đỗ Vinh và Eric Scigliano, nếu chấp nhận cách lý giải đó, cũng sẽ dịch một cách khác. Thành thử, cái sai hay cái đúng của bản dịch ở đây không nằm trong tương quan giữa văn bản gốc và bản dịch. Mà là giữa hai cách “dịch” từ tiếng Việt ra …tiếng Việt. Có một câu thơ nằm trong một bài thơ nổi tiếng khác nằm trong hoàn cảnh tương tự, thỉnh thoảng lại thấy có người đưa ra bàn cãi. Đó là bài “Đây thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mặc Tử. Câu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền,” cho đến giờ, ta vẫn không biết chính xác Hàn Mặc Tử muốn nói cái gì qua cụm từ “mặt chữ điền.” Nhưng giả sử nếu không biết một cách chính xác ý nghĩa của “mặt chữ điền” thì phải chăng là bài “Đây thôn Vỹ Dạ” không thể dịch. Và đành bó tay. Hay dịch giả có quyền dịch đúng theo ý mà dịch giả suy đoán được từ bài thơ? Hay nói một cách khác, dịch – cũng như đọc – là dịch và đọc từ văn bản và chỉ từ văn bản mà thôi. Và do đó, nếu có thảo luận chuyện đúng sai cũng chỉ giới hạn thảo luận ở văn bản, văn bản gốc và văn bản dịch? Mặt khác, nếu văn chương chỉ là văn bản và chỉ văn bản mà thôi, thì có cần phải ưu tư về việc đi tìm bối cảnh của một sáng tác văn học, nghĩa là đi tìm tác giả, bối cảnh phát sinh và ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm. Vì khổ nỗi, có rất nhiều trường hợp (như trường hợp của bài thơ của HMT vừa dẫn), ta khó thể nào tìm ra được một cách chính xác một chi tiết mà chỉ có tác giả mới biết. Nhân đây, tôi xin nhắc lại một bài thơ khác rất quen thuộc là bài “Ngậm ngùi” của Huy Cận. Bài thơ ai cũng biết rồi và thuộc nằm lòng nữa, nhưng cũng xin chép lại ra đây: Nắng chia nửa bãi, chiều rồi… Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu. Sợi buồn con nhện giăng mau, Em ơi! Hãy ngủ, anh hầu quạt đây. Lòng anh mở với quạt này, Trăm con chim mộng về bay đầu giường. Ngủ đi em, mộng bình thường! Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ… Cây dài bóng xế ngẩn ngơ… Hồn em đã chín mấy mùa thương đau ? Tay anh em hãy tựa đầu, Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi… Tôi cứ đọc, cứ hát bài thơ (Phạm Duy phổ nhạc), cảm thấy hay và không thắc mắc gì. Cho đến một lần, tôi ra ngoài Bắc (tất nhiên là sau 1975), nhân khi nghe hát bản nhạc đó, một người bà con hỏi tôi: “Anh có biết bài thơ đó đề cập đến khung cảnh gì không?”. Tôi ngẩn người ra, đọc đi đọc lại, cố hết sức “đắm mình vào ngôn ngữ” thì thấy nó hay, hay lắm và rốt cuộc, thú thật là hoàn toàn mù tịt, không hiểu nhà thơ nói về chuyện gì. Người bà con tôi cho biết: bài thơ diễn tả cảnh nhà thơ đang đi thăm mộ của một người tình đã chết! Tôi giật mình, đọc kỹ lại. Tôi thấy, chao ôi, quả là nhà thơ đang ở trong…bãi tha ma! Thế mà bấy lâu nay, tôi vẫn mơ hồ hình dung là nhà thơ đang ru người tình của mình trên ghế xa lông trong một phòng khách sang trọng nào đó?!!! Rõ ràng là nếu dịch bài thơ, thì hai cách hiểu chắc chắn sẽ cho ra lò hai cách dịch khác nhau. Hiện thực, ẩn dụ và ngôn ngữ! Nội chuyện “dịch” từ tiếng mẹ đẻ sang tiếng…mẹ đẻ mà còn đa đoan như thế thì nói gì đến chuyện dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Thành thử, dịch thuật sẽ vẫn là một chuyện tranh cãi dài dài. Đành vậy! Trần Doãn Nho (12/2008)
|
|
|
Post by admin on May 28, 2009 16:39:51 GMT -5
Bà Đặng Tuyết Mai nói về Trịnh Công Sơn
Ban Biên Tập Chia sẻ với bạn bè♦ 0 bình luận ♦ 19.04.2009 LTS: Vào tối thứ Năm, 26 tháng 3, 2009 phóng viên Ngụy Vũ của đài Little Saigon TV phỏng vấn bà Đặng Tuyết Mai, phu nhân của cựu thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ. Trong cuộc nói chuyện, có một đoạn liên quan đến “tư thế chính trị” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. BBT Da Màu xin trích đăng để bạn đọc tham khảo.
BBT Da Màu
Những liên hệ đến nhạc Trịnh Công Sơn
Trong câu chuyện, bà Đặng Tuyết Mai cũng đề cập tới các nhân vật khác như đại tá Lưu Kim Cương và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ngụy Vũ đã đặt ra câu hỏi và bà Mai kể lại như sau:
NV: Ngay từ phút đầu, khi được chị Đặng Tuyết Mai nhận lời lên chương trình Ngụy Vũ Show, khi nói về quãng đời của chị, có quá nhiều giai đoạn về không gian và thời gian mang tính lịch sử. Vì vậy, trong thế hệ của Ngụy Vũ, không dám đi về giai đoạn trước 1975. Tuy nhiên, Ngụy Vũ tôn trọng cuốn hồi ký của chị sắp ra trong năm 2009. Lúc nãy, chị có nhắc tới cố Đại tá Lưu Kim Cương, điều này làm cho em nhớ lại dòng nhạc Trịnh Công Sơn. Đây cũng là một huyền thoại. Em chỉ muốn hỏi chị, bài hát “Cho một người nằm xuống,” có phải đích thực Trịnh Công Sơn viết cho cố Đại tá Lưu Kim Cương không chị?
ĐTM: Vâng, thật ra, tất cả chúng ta đều biết bài đó Trịnh Công Sơn viết cho cố Đại tá, bây giờ là cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương. Có nói một tí về liên hệ của Trịnh Công Sơn không?
NV: Chắc chắn. Chính em cũng muốn biết. Lịch sử có nhiều giai đoạn, nghệ thuật, chiến tranh đều là lịch sử. Giao tình như thế nào mà trong thời đó, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lại viết bài hát đặc biệt này trong niềm xúc động cho cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương?
ĐTM: Trước hết, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tất cả chúng ta đều không những ngưỡng mộ, thán phục mà còn yêu mến. Riêng đối với chị, cảm tình đối với anh Trịnh Công Sơn còn có một tí tình cảm rất là trái cấm. Trái cấm đây không có nghĩa là có tình cảm gì đặc biệt giữa đàn ông đàn bà. Không có. Nhưng thời kỳ đó, anh Trịnh Công Sơn viết những bài hát được mô tả là phản chiến.
Anh Kỳ, lúc đó, là người đang chiến đấu. Thành ra, anh Kỳ đã một lần công khai trong ban Không quân, do anh Lưu Kim Cương hay mời anh Trịnh Công Sơn tới, đã đả kích anh Trịnh Công Sơn là anh đã viết những bài phản chiến. Chị nhớ lúc đó, anh Trịnh Công Sơn nói rằng, anh không nghĩ đến viết phản chiến gì hết, mà chỉ là một người nghệ sĩ viết lên niềm đau của dân tộc, những điều mắt thấy tai nghe, đau đớn thôi. Anh Kỳ nói rằng là, đương nhiên anh viết như thế, những người lính ở mặt trận… Anh Trịnh Công Sơn mới nói, anh là người đứng giữa, một chứng nhân. Anh Kỳ có nói rằng, trong hai chiến tuyến đang đánh nhau, anh chọn là người đứng giữa anh sẽ bị trúng đạn của cả hai bên. Thành ra, có sự rất căng thẳng giữa anh Kỳ và Trịnh Công Sơn.
Ngược lại, phía đằng sau, anh Lưu Kim Cương và chị rất là say mê nhạc của anh Trịnh Công Sơn và con người của anh Trịnh Công Sơn nữa. Chị hay nấu nướng. Trong Câu lạc bộ Không quân, anh Lưu Kim Cương có một câu lạc bộ nhỏ là Mây Bốn Phương, luôn luôn kéo anh Trịnh Công Sơn vào đó. Chị đem đồ nhậu đến. Anh Trịnh Công Sơn làm được bài nhạc mới là hát và hay tả cho nghe. Chị hay đến câu lạc bộ Mây Bốn Phương để nghe anh Trịnh Công Sơn đàn hát những bài hát mới. Giao tình của anh Trịnh Công Sơn với anh Lưu Kim Cương rất mật thiết. Cũng lạ, một người rất là nhà binh, to lớn, cường tráng. Còn anh Trịnh Công Sơn rất là mỏng manh, ốm yếu. Nhưng hai người gần nhau vô cùng trong tình nghệ sĩ. Anh Lưu Kim Cương có rất nhiều nghệ sĩ tính, hát rất hay. Thành ra, họ rất thân mến với nhau. Hàng tuần, họ gặp nhau hai, ba lần. Cho nên, lúc anh Lưu Kim Cương nằm xuống, anh Trịnh Công Sơn làm bài “Cho một người nằm xuống,” thật xúc động. Chị không lấy làm lạ, vì họ rất thân nhau.
NV: Đó là sự liên hệ, thân tình giữa cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương và cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Giao tình giữa chị và anh Trịnh Công Sơn trong thời đó, đối với chị kỷ niệm nào chị có với anh Trịnh Công Sơn. Kỷ niệm nào chị ghi nhận được, trong đó có nhạc phẩm chị biết được hoàn cảnh ra đời?
ĐTM: Những hoàn cảnh ra đời của những bản nhạc, trong sách và báo chí nói đến nhiều lắm. Chị chỉ nói giao tình riêng, cá nhân. Trịnh Công Sơn hay nhiều lần, thích bắt tay chị vô cùng, khi bàn đến một lời ca nào của Trịnh Công Sơn, mà ca từ của Trịnh Công Sơn tuyệt vời. Chẳng hạn như trong bài Mưa Hồng, chị rất yêu câu, “Trời ươm nắng cho mây hồng.” Khi nói đến “ươm nắng,” mình thấy sự ẩm ướt, mưa gió, mà tại sao lại có nắng. Câu chuyện rất dài. Chị xin nói là tại sao Trịnh Công Sơn đứng dậy bắt tay chị. Trong câu, “Em đi về cầu mưa ướt áo.” Chị hỏi anh Trịnh Công Sơn là, “Ai là người cầu mưa ướt áo?” Có nguồn dư luận nói là, “Em đi qua cầu, rồi trời mưa ướt áo.” Có nhiều người khác lại nói rằng là, “Anh là người cầu mưa ướt áo, vì các em Đồng Khánh mặc áo trắng, mà trời mưa, tất nhiên là có good view.” Chị nói là, chị nghĩ người cầu mưa chính là người con gái đó. Tại vì người con gái Huế rất lãng mạn. Bây giờ, người phụ nữ được quyền ăn mặc hở hang để khoe nét đẹp. Nhưng ngày xưa, trong sự nghiêm khắc e dè của người Huế ngày xưa, và của đất nước ngày xưa, không cho phép người phụ nữ được phô bày. Thành ra, “Em đi về, em cầu cho mưa ướt áo, để em được chính thức khoe vẻ đẹp của mình.” Chị nghĩ chính người con gái cầu cho mưa ướt áo. Khi chị nói thế, Trịnh Công Sơn vỗ bàn và nhổm người lên bắt tay chị, thích vô cùng. Chị đã nhìn ra được. Trong bài “Cát bụi tình xa,” có câu “vết mực nào xóa bỏ không hay.” Chị hỏi tại sao có câu đó. Trịnh Công Sơn nói rằng, ngày xưa ở những làng Huế rất nhỏ, khi trong gia đình có người chết, phải đi khai tử. Ông xã trưởng già nua mở cuốn sổ hộ tịch ra, ông đeo kiếng và tra tên, và chấm mực, xóa tên người chết. Đó là câu, “vết mực nào xóa bỏ không hay.”
|
|