Post by admin on Jun 6, 2009 20:02:29 GMT -5
Chế Mân và công chúa Huyền Trân (I)
DCVOnline: – Cuộc hôn nhân giữa vua Champa Chế Mân và công chúa Đại Việt Huyền Trân đã được nhiều tác giả, sử gia Việt Nam đưa vào sử sách như Đại Việt Sử ký Toàn thư (ĐVSKTT), hay các bài khảo luận của Phạm Văn Sơn, Thái Văn Kiểm, Lê Ước, v.v... Nói chung đó những nhận định của người Việt dân tộc Kinh như Huyền Trân công chúa.
DCVOnline xin giới thiệu đến bạn đọc một số nhận định từ một góc nhìn khác của tác giả Nguyễn Đố (Dominique Nguyễn) là người Việt dân tộc Chăm. Tác giả là thành viên của Chương Trình Thế Giới Mã Lai-Thế Giới Ðông Dương của Trường Viễn Ðông Bác Cổ Pháp (EFEO).
Đây là bài viết trích từ tạp chí Harak Champaka số 16, 14/11/2006 và đọc được trên trang Cha,paka. Online: snipurl.com/32t4g [www_champaka_org], July 21, 2008.
Mời quý bạn đọc theo dõi tác giả Nguyễn Đố đặt lại vấn đền bi kịch lịch sử 700 năm cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa: 1306-2006.
Champa
Nguồn: viettouch.com
--------------------------------------------------------------------------------
700 năm cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa: 1306-2006
Ðặt lại vấn đề của bi kịch lịch sử này
Dominique Nguyen
Dominique Nguyen
Nguồn: Champaka.org
--------------------------------------------------------------------------------
Trong suốt mấy năm trường lãnh đạo để chống quân xăm lăng của Mông Cổ, quốc vương Champa là Indravarman V qua đời vì tuổi già, mà nhà thương thuyền Âu Châu là Marco Polo, nhân dịp ghé thăm Champa vào năm 1288, có nói đến.
Sau ngày từ trần của vua cha, hoàng tử Harijit, con của hoàng hậu Gaurendraksmi, lên ngôi lấy vương hiệu là Jaya Sinhavarman III, mà tài liệu Trung Quốc gọi là Pou Ti và tài liệu Việt Nam gọi là Chế Mân.
Từ khi lên nắm chính quyền, Chế Mân không ngừng đem lại niềm an vui và thịnh vượng cho quốc gia này. Gần 20 năm lãnh đạo quốc gia, ngài đã để lại cho hậu thế hai công trình kiến trúc đồ sộ đó tháp Yang Mum (Kom Tum) và tháp Po Klaong Garai (Phan Rang). Sau thế kỷ thứ 15, vương quốc Panduranga trưng dụng tháp này để thờ một trong ba vị thần quan trọng nhất ở địa phương, đó là vua huyền sử Po Klaong Garai.
Hết đương đầu với quân Mông Cổ của Koubilai, ngài chủ trương tiếp tục bang giao với Ðại Việt nhưng không bao giờ qui phục nước láng giềng. Ngài cũng tìm cách liên kết chính trị với vương quốc Majapahit của Mã Lai bằng cách kết hôn với công chúa Tapasi của quốc gia này.
Bước vào thiên niên thế kỷ thứ 14 đánh dấu một khúc quanh mới trong chính sách bang giao giữa Champa và Ðại Việt. Nhân dịp viếng thăm Champa vào năm 1301, thượng hoàng Trần Nhân Tôn hứa gả công chúa Huyền Trân (tức là em gái của vua Trần Anh Tôn) cho vua Chế Mân, với điều kiện Champa phải nhường cho Ðại Việt hai Châu Ô và Lý. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) là ngày kết hôn giữa vua Chế Mân và công chúa Huyền Trân.
Tháng giêng năm Ðinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tôn đổi hai châu Ô và Lý thành châu Thuận và châu Hóa.
Tháng 5 năm Ðinh Mùi (1307), quốc vương Chế Mân từ trần.
Tháng 10 cùng năm Ðinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tôn sai Trần Khắc Chung sang Champa tìm cách đưa công chúa Huyền Trân về nước.
Ðây là cuộc tình hi hữu chưa từng xảy ra trong tiến trình lịch sử ở các nước Ðông Nam Á và cũng là một bi kịch tình sử mà các sử gia, các nhà văn và cả kịch ảnh Việt Nam không ngừng bàn đến, tùy theo gốc độ quan điểm của mỗi tác giả, như Bao La Cư Sĩ, G. Coedes, Lê Ước, Lê Trang Kiều, G. Maspero, Ðỗ Trọng Huề, Phạm Văn Sơn, Thái Văn Kiểm, Võ Liêu (xem thư mục), v.v...
Dù dưới gốc độ ngòi bút nào đi nữa, những bài viết về cuộc tình giữa Chế Mân và Huyền Trân của các chuyên gia Việt Nam chỉ nói lên quan điểm riêng tư của những tác giả này, thường mang màu sắc chính trị hay bộc lộ lòng ái quốc của một dân tộc lớn có bốn ngàn năm văn hiến, để rồi quên đi những yếu tố lịch sử quan trọng nhằm dựa vào đó để phân tích lại một cách nghiêm túc và trung thực, dù sự trung thực đó có tổn thương đến danh dự người quá cố đi nữa. Vì vậy chúng tôi có quyền đặt lại những nghi vấn sau đây:
1. Chế Mân có quyền dâng hiến đất đai cho Ðại Việt hay không
2. Huyền Trân có đủ tư cách pháp lý để lên dàn hỏa hay không
3. Tại sao Huyền Trân phải bỏ cung đình chạy trốn
4. Ðâu là danh dự của quốc gia Ðại Việt
5. Ðâu là đạo đức và thể diện của công chúa nhà Trần
Ðó là 5 vấn đề trọng yếu còn chứa đựng bao điều bí ẩn cần được phân tích trong bài khảo luận, mà chúng tôi hy vọng đem lại sự sáng tỏ về biến cố này, nhân ngày kỷ niệm 700 năm cuộc tình sử Chế Mân-Huyền Trân Công Chúa (1306-2006).
--------------------------------------------------------------------------------
Cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân không phải là câu truyện hoang đường, mà là một biến cố lịch sử được ghi lại lần đầu tiêu trong Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư (ÐVSKTT).
Ai cũng biết ÐVSKTT là biên niên sử chính thức của vương quốc Ðại Việt và cũng là tài liệu duy nhất đưa ra những dữ kiện rất là chi tiết liên quan đến cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa. Vì là biên niên sử chính thức, thành ra tài liệu này luôn luôn mang màu sắc văn chương chính trị, viết theo quan điểm của vua chúa Ðại Việt và nhằm tôn vinh vua chúa Ðại Việt hơn là nói lên sự thật của một biến cố đã xảy ra. Ðó là qui luật chung của tất cả tư liệu lịch sử cổ ở khu vực các quốc gia Ðông Nam Á. Chính vì thế, chúng tôi cần suy xét và phân tích lại một cách nghiêm túc từng khía cạnh của vấn đề trước khi đưa ra lời kết luận.
Ðây là phần trích dẫn từ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư (tập II, Nhà xuất bản Khoa Học xã Hội, Hà Nội, 1971) liên quan đến cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân:
– Tân sửu năm thứ 9 [1301] Nguyên Ðại-đức thứ 5 (...).Tháng 2, nước Chiêm-thành sang cống. Tháng 3, thượng hoàng đi chơi các địa phương, sang Chiêm-thành (...). Mùa đông, tháng 11, thượng hoàng tự Chiêm-thành về (tr. 96).
– Quý mão năm thứ 11 [1303] (...) Mùa đông, tháng 10, (...) Lấy Ðoàn Nhữ Hài làm tham tri chính sự (...). Trước đây sứ nước ta sang Chiêm-thành đều lạy vua nước Chiêm trước, rồi sau mới mở chiếu thư. Khi Nhữ Hài đến, bưng ngay chiếu thư để lên trên án và bảo vua Chiêm rằng : “Từ khi sứ giả đem chiếu thư của thiên tử đến, xa cách ánh sáng lâu ngày, nay mở chiếu thư ra, hình như trông thấy mặt thiên tử, tôi phải lạy chiếu thư đã rồi mới tuyên độc sau”. Rồi lập tức hướng vào chiếu thư lạy xuống. Lúc ấy vua nước Chiêm đứng ở bên cạnh, lạy thế không khỏi có chút chưa ổn, nhưng lấy cớ là lạy tờ chiếu thì là thuận lễ, mà sứ thần cũng không phải khuất. (...). Sau này ngững người đi sứ Chiêm-thành không lạy vua nước Chiêm là bắt đầu từ Nhữ Hài (tr. 98)
– Ất tị năm thứ 13 [1305] (...) Tháng 2, Chiêm-thành sai Chế Bồ-đài và bộ đảng hơn trăm người đem vàng bạc, hương quý, vật lạ để dâng làm lễ vật cầu hôn. Các quan triều đều cho là không nên, duy có Văn-túc vương là Ðạo Tái chủ trương là nên và Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới quyết (tr. 100).
– Bính ngọ năm thứ 14 [1306] (...). Mùa hạ tháng 6, gả công chúa Huyền-trân cho vua nước Chiêm-thành. Trước đây, thượng hoàng đi chơi các địa phương sang nước Chiêm-thành, đã trót hứa gả con gái cho. Các văn sĩ trong triều ngoài nội nhiều người mượn điển vua nhà Hán đem Chiêu-quân gả cho Hung-nô làm thơ bằng quốc ngữ để chê cười (tr. 102).
Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn : Ngày xưa Hán Cao hoàng vì nước Hung-nô thường quấy phá biên giới, mới lấy con gái của dân làm công chúa gả cho thiền vu, kết hôn với người không phải giống nòi, các tiên nho đã từng chê (...).Còn như Nhân tôn đem con gái gả cho vua nước Chiêm-thành là nghĩa gì ? Nói rằng nhân khi đi chơi mà chót hứa gả, sợ thất tín, thì sao không làm việc đổi mệnh có được không ? Vua giữ ngôi trời mà thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi mệnh thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi cho đúng lời hẹn ước, rồi lại dùng mưu gian trá cướp lại về sau, thế thì tin ở đâu ? (tr. 102).
Tháp Poshanu (Tháp Chàm)
Nguồn: flickr.com
--------------------------------------------------------------------------------
– Ðinh mùi năm thứ 15 [1307] Mùa xuân tháng giêng. Ðổi hai châu Ô Lý làm châu Thuận và châu Hóa, sai hành khiển Ðoàn Nhữ Hài đến vỗ yên nhân dân. Trước là vua Chiêm-thành Chế Mân đem đất hai châu ấy làm lễ vật dẫn cưới, người các thôn La-thủy, Tác-hồng, Ðà-bồng không chịu theo, vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý của triều đình, chọn người trong bọn chúng bổ cho làm quan, lại cấp cho ruộng đất, tha tô thuế cho 3 năm để vỗ về (tr. 103)
– Mùa hạ tháng 5. Vua Chiêm-thành là Chế Mân chết (tr. 103)
– Mùa thu, tháng 9. Con vua Chiêm-thành là Chế Ða-da sai sứ thần là Bảo Lộc-kê dâng voi trắng (tr. 103).
– Mùa đông, tháng 10, sai nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung và an phủ Ðặng Văn sang Chiêm-thành đón công chúa Huyền-trân và thế tử Ða-da về. Tục nước Chiêm-thành, hễ vua chết thì hoàng hậu phải vào dàn thiêu chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung sang, mượn cớ làm lễ viếng và nói rằng : “Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng hãy ra bờ biển làm lễ chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn cùng về, rồi sẽ vào dàn thiêu. Người Chiêm nghe theo (tr. 103).
Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, loanh quanh mãi ở đường biễn, lâu ngày mới về đến Kinh sư. Hưng nhượng đại vương ghét lắm, mỗi khi trông thấy Khắc Chung thì mắng rằng : “Người ấy đối với nước ta là bất tường, họ tên là Trần Khắc Chung thì nhà Trần có lẽ hết vì người này chăng” Khắc Chung thường sợ phải lẩn tránh (tr. 104)
Sử thần Ngô sĩ Liên bàn: Trần Khắc Chung là người gian tà biết chừng nào ? Không những là làm việc chó lợn này, đến sau lại vào tụi với Văn-hiến hầu vu hãm quốc phu thượng tể (53) vào tội phản nghịch, làm chết oan hơn trăm người mà nó được hưởng phú quý trọn đời (...)(tr. 104).
– Mậu thân, năm thứ 16 [1308] (...)Mùa thu, tháng 8, công chúa Huyền-trân. Thượng hoàng sai trại chủ Hóa Châu cho thuyền đưa 300 người Chiêm về nước (tr. 104).
Phải công nhận rằng, ÐVSKTT kể lại cốt truyện hôn nhân giữa Chế Mân và Huyền Trân rất là chi tiết và hấp dẫn đối với độc giả bình dân. Tiếc rằng những chi tiết này, nếu nhìn trên khía cạnh lịch sử, còn mang một số điều vừa bí ẩn vừa mâu thuẫn mà chúng tôi xin đưa ra để bình luận.
1. Chế Mân có quyền dâng hiến đất đai cho Ðại Việt hay không?
Theo ÐVSKTT, sau khi nhận lời hứa của thượng hoàng Trần Nhân Tôn, vua Chế Mân sai Chế Bồ Ðài và hơn trăm người đem vàng bạc, hương quý, vật lạ để dâng làm lễ vật cầu hôn vào tháng 2 năm Ất Tị (1305). Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), Huyền Trân về Champa chung sống với Chế Mân. Chỉ trong vòng 6 tháng sau, tức là tháng Giêng năm Ðinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tôn tiếp thu hai châu Ô và Lý mà vua Chế Mân đã dâng hiến cho ˜Ðại Việt để làm quà cưới công chúa Huyền Trân.
Ðứng trên phương diện lịch sử mà phân tích, việc vua Chế Mân dâng hiến đất đai Champa cho nước láng giềng, dù sự dâng hiến này để chuộc sứ mạng vì bị bắt làm tù binh chưa nói đến là dâng hiến đất đai để trao đổi lấy một đàn bà có sắc đẹp, hoàn toàn ngược lại với qui chế chính trị của vương quốc Champa thời đó.
Ai cũng biết, Champa là một quốc gia theo chế độ mẫu hệ, tức là một hệ thống tổ chức xã hội trong đó mọi tài sản (dù đất đai hay châu báu) và con cái trong gia đình là thuộc quyền sở hữu của người đàn bà. Người đàn ông dù họ là chồng, vua chúa hay quan lại, không có quyền chiếm đoạt, chuyển nhượng, mua bán hay đổi chác tài sản và con cái này.
Champa là một quốc gia theo chế độ “mẫu hệ” chứ không phải chế độ “mẫu quyền”. Thành vậy mọi quyền lực chính trị và xã hội đều nằm trong tay của người chồng. Ðàn ông là người làm chủ gia đình và lãnh đạo quốc gia, nhưng mọi ngôi báu, vương niệm và quyền nối ngôi thuộc về gia đình mẫu hệ. Hoàn toàn khác hẳn với thể chế chính trị của nền văn minh Ðại Việt, chủ nhân của ngôi báu và đất đai ở Champa là bà hoàng hậu. Vua lên ngôi nhân danh bà hoàng hậu và phải phục vụ để duy trì ngôi báu của dòng tộc hoàng hậu này. Chính vì thế, tất cả những ai có liên hệ trực tiếp (như anh hay em trai của vợ cũng như cậu, bác phía bên vợ) hay gián tiếp (như chú rể) với thân tộc của bà hoàng hậu đều có quyền lên ngôi nếu hội đồng gia đình hoàng gia mẫu hệ chấp thuận.
Theo qui ước chế độ mẫu hệ ở Champa, vua là người lãnh tụ tối cao của một quốc gia, nắm toàn quyền chính trị, quân sự và pháp lý. Vua có quyền lấy bao nhiêu người vợ cũng được nếu bà hoàng hậu chấp thuận, nhưng ông vua không có quyền chuyển nhượng hay đổi chác bất cứ những gì thuộc di sản thuộc về hoàng gia của bà vợ mình, dù đó chỉ là áo quần, chứ đừng nói đến vàng bạc, đất đai và con cái. Thế thì Chế Mân đã dựa vào qui ước nào của vương quốc Champa này để rồi tự tiện dâng hiến đất đai châu Ô và Lý cho Ðại Việt để được cưới công chúa Huyền Trân?
Không ai phủ nhận là ÐVSKTT đã xác nhận sự chuyển nhượng đất đai này. Nhưng ÐVSKTT quên rằng Chế Mân là một nhà vua cai trị một quốc gia theo chế độ mẫu hệ. Thành vậy, mọi sự dâng hiến đất đai cho Ðại Việt hoàn toàn đi ngược lại với thể chế pháp lý của Champa thời đó
DCVOnline: – Cuộc hôn nhân giữa vua Champa Chế Mân và công chúa Đại Việt Huyền Trân đã được nhiều tác giả, sử gia Việt Nam đưa vào sử sách như Đại Việt Sử ký Toàn thư (ĐVSKTT), hay các bài khảo luận của Phạm Văn Sơn, Thái Văn Kiểm, Lê Ước, v.v... Nói chung đó những nhận định của người Việt dân tộc Kinh như Huyền Trân công chúa.
DCVOnline xin giới thiệu đến bạn đọc một số nhận định từ một góc nhìn khác của tác giả Nguyễn Đố (Dominique Nguyễn) là người Việt dân tộc Chăm. Tác giả là thành viên của Chương Trình Thế Giới Mã Lai-Thế Giới Ðông Dương của Trường Viễn Ðông Bác Cổ Pháp (EFEO).
Đây là bài viết trích từ tạp chí Harak Champaka số 16, 14/11/2006 và đọc được trên trang Cha,paka. Online: snipurl.com/32t4g [www_champaka_org], July 21, 2008.
Mời quý bạn đọc theo dõi tác giả Nguyễn Đố đặt lại vấn đền bi kịch lịch sử 700 năm cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa: 1306-2006.
Champa
Nguồn: viettouch.com
--------------------------------------------------------------------------------
700 năm cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa: 1306-2006
Ðặt lại vấn đề của bi kịch lịch sử này
Dominique Nguyen
Dominique Nguyen
Nguồn: Champaka.org
--------------------------------------------------------------------------------
Trong suốt mấy năm trường lãnh đạo để chống quân xăm lăng của Mông Cổ, quốc vương Champa là Indravarman V qua đời vì tuổi già, mà nhà thương thuyền Âu Châu là Marco Polo, nhân dịp ghé thăm Champa vào năm 1288, có nói đến.
Sau ngày từ trần của vua cha, hoàng tử Harijit, con của hoàng hậu Gaurendraksmi, lên ngôi lấy vương hiệu là Jaya Sinhavarman III, mà tài liệu Trung Quốc gọi là Pou Ti và tài liệu Việt Nam gọi là Chế Mân.
Từ khi lên nắm chính quyền, Chế Mân không ngừng đem lại niềm an vui và thịnh vượng cho quốc gia này. Gần 20 năm lãnh đạo quốc gia, ngài đã để lại cho hậu thế hai công trình kiến trúc đồ sộ đó tháp Yang Mum (Kom Tum) và tháp Po Klaong Garai (Phan Rang). Sau thế kỷ thứ 15, vương quốc Panduranga trưng dụng tháp này để thờ một trong ba vị thần quan trọng nhất ở địa phương, đó là vua huyền sử Po Klaong Garai.
Hết đương đầu với quân Mông Cổ của Koubilai, ngài chủ trương tiếp tục bang giao với Ðại Việt nhưng không bao giờ qui phục nước láng giềng. Ngài cũng tìm cách liên kết chính trị với vương quốc Majapahit của Mã Lai bằng cách kết hôn với công chúa Tapasi của quốc gia này.
Bước vào thiên niên thế kỷ thứ 14 đánh dấu một khúc quanh mới trong chính sách bang giao giữa Champa và Ðại Việt. Nhân dịp viếng thăm Champa vào năm 1301, thượng hoàng Trần Nhân Tôn hứa gả công chúa Huyền Trân (tức là em gái của vua Trần Anh Tôn) cho vua Chế Mân, với điều kiện Champa phải nhường cho Ðại Việt hai Châu Ô và Lý. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) là ngày kết hôn giữa vua Chế Mân và công chúa Huyền Trân.
Tháng giêng năm Ðinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tôn đổi hai châu Ô và Lý thành châu Thuận và châu Hóa.
Tháng 5 năm Ðinh Mùi (1307), quốc vương Chế Mân từ trần.
Tháng 10 cùng năm Ðinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tôn sai Trần Khắc Chung sang Champa tìm cách đưa công chúa Huyền Trân về nước.
Ðây là cuộc tình hi hữu chưa từng xảy ra trong tiến trình lịch sử ở các nước Ðông Nam Á và cũng là một bi kịch tình sử mà các sử gia, các nhà văn và cả kịch ảnh Việt Nam không ngừng bàn đến, tùy theo gốc độ quan điểm của mỗi tác giả, như Bao La Cư Sĩ, G. Coedes, Lê Ước, Lê Trang Kiều, G. Maspero, Ðỗ Trọng Huề, Phạm Văn Sơn, Thái Văn Kiểm, Võ Liêu (xem thư mục), v.v...
Dù dưới gốc độ ngòi bút nào đi nữa, những bài viết về cuộc tình giữa Chế Mân và Huyền Trân của các chuyên gia Việt Nam chỉ nói lên quan điểm riêng tư của những tác giả này, thường mang màu sắc chính trị hay bộc lộ lòng ái quốc của một dân tộc lớn có bốn ngàn năm văn hiến, để rồi quên đi những yếu tố lịch sử quan trọng nhằm dựa vào đó để phân tích lại một cách nghiêm túc và trung thực, dù sự trung thực đó có tổn thương đến danh dự người quá cố đi nữa. Vì vậy chúng tôi có quyền đặt lại những nghi vấn sau đây:
1. Chế Mân có quyền dâng hiến đất đai cho Ðại Việt hay không
2. Huyền Trân có đủ tư cách pháp lý để lên dàn hỏa hay không
3. Tại sao Huyền Trân phải bỏ cung đình chạy trốn
4. Ðâu là danh dự của quốc gia Ðại Việt
5. Ðâu là đạo đức và thể diện của công chúa nhà Trần
Ðó là 5 vấn đề trọng yếu còn chứa đựng bao điều bí ẩn cần được phân tích trong bài khảo luận, mà chúng tôi hy vọng đem lại sự sáng tỏ về biến cố này, nhân ngày kỷ niệm 700 năm cuộc tình sử Chế Mân-Huyền Trân Công Chúa (1306-2006).
--------------------------------------------------------------------------------
Cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân không phải là câu truyện hoang đường, mà là một biến cố lịch sử được ghi lại lần đầu tiêu trong Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư (ÐVSKTT).
Ai cũng biết ÐVSKTT là biên niên sử chính thức của vương quốc Ðại Việt và cũng là tài liệu duy nhất đưa ra những dữ kiện rất là chi tiết liên quan đến cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa. Vì là biên niên sử chính thức, thành ra tài liệu này luôn luôn mang màu sắc văn chương chính trị, viết theo quan điểm của vua chúa Ðại Việt và nhằm tôn vinh vua chúa Ðại Việt hơn là nói lên sự thật của một biến cố đã xảy ra. Ðó là qui luật chung của tất cả tư liệu lịch sử cổ ở khu vực các quốc gia Ðông Nam Á. Chính vì thế, chúng tôi cần suy xét và phân tích lại một cách nghiêm túc từng khía cạnh của vấn đề trước khi đưa ra lời kết luận.
Ðây là phần trích dẫn từ Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư (tập II, Nhà xuất bản Khoa Học xã Hội, Hà Nội, 1971) liên quan đến cuộc tình Chế Mân và Huyền Trân:
– Tân sửu năm thứ 9 [1301] Nguyên Ðại-đức thứ 5 (...).Tháng 2, nước Chiêm-thành sang cống. Tháng 3, thượng hoàng đi chơi các địa phương, sang Chiêm-thành (...). Mùa đông, tháng 11, thượng hoàng tự Chiêm-thành về (tr. 96).
– Quý mão năm thứ 11 [1303] (...) Mùa đông, tháng 10, (...) Lấy Ðoàn Nhữ Hài làm tham tri chính sự (...). Trước đây sứ nước ta sang Chiêm-thành đều lạy vua nước Chiêm trước, rồi sau mới mở chiếu thư. Khi Nhữ Hài đến, bưng ngay chiếu thư để lên trên án và bảo vua Chiêm rằng : “Từ khi sứ giả đem chiếu thư của thiên tử đến, xa cách ánh sáng lâu ngày, nay mở chiếu thư ra, hình như trông thấy mặt thiên tử, tôi phải lạy chiếu thư đã rồi mới tuyên độc sau”. Rồi lập tức hướng vào chiếu thư lạy xuống. Lúc ấy vua nước Chiêm đứng ở bên cạnh, lạy thế không khỏi có chút chưa ổn, nhưng lấy cớ là lạy tờ chiếu thì là thuận lễ, mà sứ thần cũng không phải khuất. (...). Sau này ngững người đi sứ Chiêm-thành không lạy vua nước Chiêm là bắt đầu từ Nhữ Hài (tr. 98)
– Ất tị năm thứ 13 [1305] (...) Tháng 2, Chiêm-thành sai Chế Bồ-đài và bộ đảng hơn trăm người đem vàng bạc, hương quý, vật lạ để dâng làm lễ vật cầu hôn. Các quan triều đều cho là không nên, duy có Văn-túc vương là Ðạo Tái chủ trương là nên và Trần Khắc Chung tán thành, việc bàn mới quyết (tr. 100).
– Bính ngọ năm thứ 14 [1306] (...). Mùa hạ tháng 6, gả công chúa Huyền-trân cho vua nước Chiêm-thành. Trước đây, thượng hoàng đi chơi các địa phương sang nước Chiêm-thành, đã trót hứa gả con gái cho. Các văn sĩ trong triều ngoài nội nhiều người mượn điển vua nhà Hán đem Chiêu-quân gả cho Hung-nô làm thơ bằng quốc ngữ để chê cười (tr. 102).
Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn : Ngày xưa Hán Cao hoàng vì nước Hung-nô thường quấy phá biên giới, mới lấy con gái của dân làm công chúa gả cho thiền vu, kết hôn với người không phải giống nòi, các tiên nho đã từng chê (...).Còn như Nhân tôn đem con gái gả cho vua nước Chiêm-thành là nghĩa gì ? Nói rằng nhân khi đi chơi mà chót hứa gả, sợ thất tín, thì sao không làm việc đổi mệnh có được không ? Vua giữ ngôi trời mà thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi mệnh thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi cho đúng lời hẹn ước, rồi lại dùng mưu gian trá cướp lại về sau, thế thì tin ở đâu ? (tr. 102).
Tháp Poshanu (Tháp Chàm)
Nguồn: flickr.com
--------------------------------------------------------------------------------
– Ðinh mùi năm thứ 15 [1307] Mùa xuân tháng giêng. Ðổi hai châu Ô Lý làm châu Thuận và châu Hóa, sai hành khiển Ðoàn Nhữ Hài đến vỗ yên nhân dân. Trước là vua Chiêm-thành Chế Mân đem đất hai châu ấy làm lễ vật dẫn cưới, người các thôn La-thủy, Tác-hồng, Ðà-bồng không chịu theo, vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý của triều đình, chọn người trong bọn chúng bổ cho làm quan, lại cấp cho ruộng đất, tha tô thuế cho 3 năm để vỗ về (tr. 103)
– Mùa hạ tháng 5. Vua Chiêm-thành là Chế Mân chết (tr. 103)
– Mùa thu, tháng 9. Con vua Chiêm-thành là Chế Ða-da sai sứ thần là Bảo Lộc-kê dâng voi trắng (tr. 103).
– Mùa đông, tháng 10, sai nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc xạ Trần Khắc Chung và an phủ Ðặng Văn sang Chiêm-thành đón công chúa Huyền-trân và thế tử Ða-da về. Tục nước Chiêm-thành, hễ vua chết thì hoàng hậu phải vào dàn thiêu chết theo. Vua biết thế, sợ công chúa bị hại, sai bọn Khắc Chung sang, mượn cớ làm lễ viếng và nói rằng : “Nếu công chúa hỏa táng thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng hãy ra bờ biển làm lễ chiêu hồn ở ven trời, đón linh hồn cùng về, rồi sẽ vào dàn thiêu. Người Chiêm nghe theo (tr. 103).
Khắc Chung dùng thuyền nhẹ cướp lấy công chúa đem về, rồi tư thông với công chúa, loanh quanh mãi ở đường biễn, lâu ngày mới về đến Kinh sư. Hưng nhượng đại vương ghét lắm, mỗi khi trông thấy Khắc Chung thì mắng rằng : “Người ấy đối với nước ta là bất tường, họ tên là Trần Khắc Chung thì nhà Trần có lẽ hết vì người này chăng” Khắc Chung thường sợ phải lẩn tránh (tr. 104)
Sử thần Ngô sĩ Liên bàn: Trần Khắc Chung là người gian tà biết chừng nào ? Không những là làm việc chó lợn này, đến sau lại vào tụi với Văn-hiến hầu vu hãm quốc phu thượng tể (53) vào tội phản nghịch, làm chết oan hơn trăm người mà nó được hưởng phú quý trọn đời (...)(tr. 104).
– Mậu thân, năm thứ 16 [1308] (...)Mùa thu, tháng 8, công chúa Huyền-trân. Thượng hoàng sai trại chủ Hóa Châu cho thuyền đưa 300 người Chiêm về nước (tr. 104).
Phải công nhận rằng, ÐVSKTT kể lại cốt truyện hôn nhân giữa Chế Mân và Huyền Trân rất là chi tiết và hấp dẫn đối với độc giả bình dân. Tiếc rằng những chi tiết này, nếu nhìn trên khía cạnh lịch sử, còn mang một số điều vừa bí ẩn vừa mâu thuẫn mà chúng tôi xin đưa ra để bình luận.
1. Chế Mân có quyền dâng hiến đất đai cho Ðại Việt hay không?
Theo ÐVSKTT, sau khi nhận lời hứa của thượng hoàng Trần Nhân Tôn, vua Chế Mân sai Chế Bồ Ðài và hơn trăm người đem vàng bạc, hương quý, vật lạ để dâng làm lễ vật cầu hôn vào tháng 2 năm Ất Tị (1305). Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306), Huyền Trân về Champa chung sống với Chế Mân. Chỉ trong vòng 6 tháng sau, tức là tháng Giêng năm Ðinh Mùi (1307), vua Trần Anh Tôn tiếp thu hai châu Ô và Lý mà vua Chế Mân đã dâng hiến cho ˜Ðại Việt để làm quà cưới công chúa Huyền Trân.
Ðứng trên phương diện lịch sử mà phân tích, việc vua Chế Mân dâng hiến đất đai Champa cho nước láng giềng, dù sự dâng hiến này để chuộc sứ mạng vì bị bắt làm tù binh chưa nói đến là dâng hiến đất đai để trao đổi lấy một đàn bà có sắc đẹp, hoàn toàn ngược lại với qui chế chính trị của vương quốc Champa thời đó.
Ai cũng biết, Champa là một quốc gia theo chế độ mẫu hệ, tức là một hệ thống tổ chức xã hội trong đó mọi tài sản (dù đất đai hay châu báu) và con cái trong gia đình là thuộc quyền sở hữu của người đàn bà. Người đàn ông dù họ là chồng, vua chúa hay quan lại, không có quyền chiếm đoạt, chuyển nhượng, mua bán hay đổi chác tài sản và con cái này.
Champa là một quốc gia theo chế độ “mẫu hệ” chứ không phải chế độ “mẫu quyền”. Thành vậy mọi quyền lực chính trị và xã hội đều nằm trong tay của người chồng. Ðàn ông là người làm chủ gia đình và lãnh đạo quốc gia, nhưng mọi ngôi báu, vương niệm và quyền nối ngôi thuộc về gia đình mẫu hệ. Hoàn toàn khác hẳn với thể chế chính trị của nền văn minh Ðại Việt, chủ nhân của ngôi báu và đất đai ở Champa là bà hoàng hậu. Vua lên ngôi nhân danh bà hoàng hậu và phải phục vụ để duy trì ngôi báu của dòng tộc hoàng hậu này. Chính vì thế, tất cả những ai có liên hệ trực tiếp (như anh hay em trai của vợ cũng như cậu, bác phía bên vợ) hay gián tiếp (như chú rể) với thân tộc của bà hoàng hậu đều có quyền lên ngôi nếu hội đồng gia đình hoàng gia mẫu hệ chấp thuận.
Theo qui ước chế độ mẫu hệ ở Champa, vua là người lãnh tụ tối cao của một quốc gia, nắm toàn quyền chính trị, quân sự và pháp lý. Vua có quyền lấy bao nhiêu người vợ cũng được nếu bà hoàng hậu chấp thuận, nhưng ông vua không có quyền chuyển nhượng hay đổi chác bất cứ những gì thuộc di sản thuộc về hoàng gia của bà vợ mình, dù đó chỉ là áo quần, chứ đừng nói đến vàng bạc, đất đai và con cái. Thế thì Chế Mân đã dựa vào qui ước nào của vương quốc Champa này để rồi tự tiện dâng hiến đất đai châu Ô và Lý cho Ðại Việt để được cưới công chúa Huyền Trân?
Không ai phủ nhận là ÐVSKTT đã xác nhận sự chuyển nhượng đất đai này. Nhưng ÐVSKTT quên rằng Chế Mân là một nhà vua cai trị một quốc gia theo chế độ mẫu hệ. Thành vậy, mọi sự dâng hiến đất đai cho Ðại Việt hoàn toàn đi ngược lại với thể chế pháp lý của Champa thời đó